Đất Quảng Nam chưa mưa đã thấm
Rượu Hồng Đào chưa nhắm đã say
Bạn về đừng ngủ gác tay
Nơi mô nghĩa nặng , ân đầy thì theo
Nói đến Quảng Nam người ta thường nghĩ đến vùng đất mở đầu cho cuộc Nam tiến, từ đó làm bàn đạp tiến đến đồng bằng sông Cửu Long. Quảng Nam có các nhà cách mạng, khoa bảng gọi là đất “ Địa Linh Nhân Kiệt “ “ Ngũ Phụng Tề Phi “, góp phần vào xây dựng đất nước, đem lại điểm son lịch sử nước nhà, và cũng là vùng đất của thi ca, đóng góp vào lâu đài Văn Hóa Dân Tộc. Trong nhân gian ca dao truyền tụng qua câu hò giọng hát, phong phú và lãng mạng. Câu chuyện cô gái hái dâu tại Điện Bàn nhờ tâm hồn văn nghệ lời ca trữ tình , giúp cho nàng bước lên đỉnh cao của danh vọng.
Theo Đại Nam Liệt truyện ghi lại Sãi Vương Nguyễn Phước Nguyên ( 1563 – 1635 ) lúc còn là Thái tử làm Trấn thủ Quảng Nam. Nguyễn Phước Lan con thứ tư của Sãi Vương ( 1601-1648 ) là cháu ngoại của Mạc Kính Điển. Nguyễn Phước Lan đi du thuyền trên sông Thu Bồn trong đêm gió mát trăng thanh, thuyền Thế tử đang lững lờ trôi giữa dòng bỗng nghe tiếng hát giọng ca trong trẻo của cô thôn nữ từ xa vọng lại :
Tai nghe Chúa ngự thuyền rồng
Thiếp thương thân phận má hồng nắng mưa
Thuyền rồng Chúa ngự đi đâu
Thiếp thương phận thiếp hái dâu một mình
Tiếng hát thanh tao giữa đêm trăng nghe hấp dẫn. Thế tử Lan cho thuyền cập vào bờ, nơi đó là bãi đất trồng dâu ở ven sông thuộc gành Điện Châu còn gọi là An Phú Tây thuộc quận Điện Bàn ngày nay. Khi lên bờ Thế tử Lan gặp thiếu nữ 16 xinh đẹp đang đứng hái dâu dưới ánh trăng vàng. Nguyễn Phước Lan đến với nàng , như hai siêu tần số tâm hồn gặp nhau, tình yêu đến thật tình cờ không hẹn ước , phải chăng đó là duyên nợ định mệnh an bài. Sãi Vương cho phép Nguyễn Phước Lan làm lễ thành hôn với nàng “ hái dâu “ là Đoàn Thị Ngọc, con gái thứ ba của quận công Đoàn Công Nhạn quê Điện Bàn.
Thế Tử xin Chúa cho phép nàng được vào hầu trong phủ. Kể từ đó bà trở thành phu nhân Thế tử Nguyễn Phước Lan, nối ngôi Chúa ( 1635- 1648 ) là Công Thượng Vương, bà Đoàn thị Ngọc được Sãi vương sủng ái đưa lên chánh phi, phong Hiếu- Chiêu- Hoàng hậu. Bà trở thành Chính Phu Nhân. Bà sanh ra chúa Hiền Nguyễn Phước Tần ( 1619-1687 ), bà là người công dung ngôn hạnh vẹn toàn nên rất được Chúa sũng ái cũng như được mọi người trong phủ kính yêu. Bà mất năm Tân Sửu ( 1961 ) , lăng bà tại Gò Cốc Hùng, núi Chiêm Sơn, Quảng Nam.
Ca dao là di sản của văn hóa, văn chương bác học của dân tộc Việt Nam là những câu hát bình dân, thông thường trong sinh hoạt xã hội . Được truyền tụng từ đời này sang đời khác , ca dao mang mọi hình thái khác nhau theo thời gian, nói lên tình yêu của tuổi xuân nam nữ, trên cánh đồng lúa trưa hè trong tiếng ve sầu bên cây phượng vĩ, hay nỗi buồn chia tay của tuổi học trò, diễn tả mọi sinh hoạt đời sống, với thiết tha hay tiếng thở dài vì tuyệt vọng, nói lên lòng hiếu thảo của con cái đối với cha mẹ, cảnh tan thương bất mãn hay lòng hào hùng trong đấu trang dành lại độc lập...Mỗi địa phương có những câu ca dao khác nhau.
Người Quảng Nam tiếp xúc văn minh ngoại quốc, từ thế kỷ 17 Trung Hoa có nền văn hóa lâu đời , ngược lại Tây Phương có tài về khoa học kỹ nghệ, bởi thế không có gì tuyệt đối với việc tiếp xúc học hỏi của người dân Quảng Nam. Tổ tiên khi xưa đặt chân đến nhận vùng đất Chiêm Thành với bản tính can đảm lúc đến lập nghiệp trong vùng đất mới khai phá, thích canh tân tiến bộ trong tinh thần dân chủ, cởi mở thích phát biểu ý kiến và phải có lý luận rõ ràng. Ai nói điều gì mơ hồ không có dẫn chứng đúng thường bị cãi lại ngay. Cãi trở nên truyền thống của người Quảng Nam, bởi thế ca dao có nói về cá tính trong sinh hoạt xã hội :
Quảng Nam hay cãi, Quảng Ngãi hay lo
Bình Định nằm co, Thừa Thiên ăn hết
Đời sống gia đình, tình yêu mộc mạc của vợ hiền đảm đang việc nhà, dành thì giờ cho chồng yên chí học hành đỗ đạt ra giúp đời, hay hai người chỉ mới yêu nhau nhưng chờ ngày bái tổ vinh qui. Ngày xưa các thí sinh Quảng Nam, phải vượt đèo Ải Vân ra Huế thi trong các kỳ thi do triều đình tổ chức, vác lều chõng ứng thí, nhà giàu đi ngựa, nghèo thì đi bộ có người gánh phụ hành trang đường xa cách trở. Các chàng trai xứ Quảng ra Huế thi, thấy nàng gái Huế mặc áo dài, mái tóc thề tung bay trong gió nhẹ của sông Hương, đi qua cầu Tràng Tiền sáu vài mười hai nhịp, khác với hình ảh người yêu hay vợ hiền ở quê nhà có thể với cái nhìn ngẩn ngơ :
Học trò trong Quảng ra thi
Thấy cô gái Huế chân đi không đành
Sau này trai Quảng Nam ra Huế học Đại Học không còn ngẩn ngơ, đến nỗi đi không đành ...như các cụ ngày xưa, học xong Đại học đi làm việc khắp nơi, không giới hạn làm quan ở triều đình Huế. Những thành phố Hội An , Đà Nẵng, Tam Kỳ trở nên sầm uất, các nàng xứ Quảng cũng xinh đẹp, văn minh dịu dàng ...nên các chàng sửa lại chữ “ thấy “ ra chữ “ mấy “ . Tình yêu lòng thủy chung thường nhắc đến , dù học hành đỗ đạt làm quan, đừng quên tình yêu ban đầu lưu luyến ấy :
Sáng trăng trải chiếu hai hàng
Bên anh đọc sách bên nàng quay tơ
Quay tơ vẫn giữ mối tơ
Dù năm bảy mối vẫn chờ mối anh
Non non, nước nước khơi chừng
Ái ân đôi chữ xin đừng quên nhau
Tình sâu mong trả nghĩa đền
Đừng vui chốn khác mà quên chốn này
Vợ chồng quê ngày ngày bận rộn việc ruộng đồng, ban đêm còn tranh thủ thời gian làm việc nhà, không mong ước gì cao xa ngoài lòng chung thủy :
Đêm hè gió mát, trăng thanh
Em ngồi chẻ lạt cho anh chắp chừng
Lạt chẳng mỏng sao thừng được tốt
Duyên đôi ta đã trót cùng nhau
Trăm năm thề những bạc đầu
Chớ ham phú quí đi cầu trăng hoa
Tình yêu khép kín trong lễ giáo gia đình, tình trong như đã mặt ngoài còn “ e” , nhưng tình yêu của phố Hội An cũng lãng mạng dành cho thi nhân và khách vãng lai :
Ai đi phố Hội, Chùa Cầu
Để thương, để nhớ, để sầu cho ai
Để sầu cho khách vãng lai
Để thương để nhớ cho ai chịu sầu
Hội An nơi hẹn hò của các cặp nhân tình trong các mùa làm việc chung với nhau :
Thương nhau chớ quá e dè
Hẹn nhau gặp lại bến cầu Rô Be
Thiếp nói thì chàng phải nghe
Thức khuya, dậy sớm, làm chè 10 ngày 12 xu
Mãn mùa chè , nệm cuốn màn treo
Ta về, bỏ bạn,cheo leo một mình,
Bạn ơi, bạn chớ phiền tình,
Mùa ni không gặp , xin hẹn cùng mùa sau
Lạy trời mưa xuống cho mau
Chè kia ra đọt, trước sau cũng gặp nhau
Tình yêu có thể vượt không gian và thời gian không còn ngăn sông cách núi dù ở đâu cũng có thể tìm đến, ngày xưa thiếu phương tiện giao thông,phải vượt núi đèo tìm đến với người yêu trong đời sống mộc mạc của hoa đồng cỏ nội, hay trên đồi sim tím :
Đói lòng ăn nửa trái sim
Uống lưng bát nước đi tìm người thương
Thương nhau, mấy núi cũng trèo
Mấy sông cũng lội, mấy đèo cũng qua
Khoảng cách không thể so sánh với tình yêu, đường xa cách trở có thể thâu gần lại :
Rằng xa : cửa ngõ cũng xa
Rằng gần: Vĩnh Điện, La Qua cũng gần
Thân phận con gái đi lấy chồng, nhưng hình ảnh sinh hoạt trong gia đình không thể quên dù được sống trong hạnh phúc bên chồng, nhưng đôi lúc chạnh lòng nhớ thương cha mẹ :
Chiều chiều ra đứng ngõ sau
Trông về quê mẹ ruột đau chín chiều
Chiều chiều mây phủ Ải Vân
Chim kêu gành đá, gẫm thân lại buồn
...Chiều chiều mây phủ Sơn Trà
Lòng ta thương bạn, nước mắt và trộn cơm
Người Quảng Nam tính tình cương trực, nói thẳng, không giấu diếm nỗi lòng, trong tình yêu gia đình, xã hội đạo làm người luôn được tuyệt đối tôn trọng :
Đối với ai ơn trọng, nghĩa dày
Một hột cơm cũng nhớ
Một gáo nước đầy vẫn chưa quên
Người chồng vì bổn phận đi xa, vợ hiền lo gánh vác việc nhà nuôi con phụng dưỡng mẹ già, giữ lòng thủy chung mong ước ngày đoàn tụ dưới mái ấm gia đình để con có mẹ có cha. Truyền thống đàn bà Việt Nam hy sinh giúp chồng mong làm nên sự nghiệp , vợ khôn ngoan làm quan cho chồng tiễn đưa chồng ra đi không phải là những nụ hôn nồng nàn, nhưng là lời nhắc nhủ :
Anh đi em ở lại nhà
Hai vai gánh vác mẹ già, con thơ
Lầm than bao quản muối dưa
Anh đi ! anh liệu chen chân với đời
Đứng bên ni sông ngó qua bên kia sông
Thấy nước xanh như tàu lá
Đứng bên ni Hà Thân, ngó qua Hàn
Thấy phố xá nghinh ngang
Kể từ ngày Tây lại đất Hàn,
Đào sông Cù Nhĩ, tìm vàng Bồng Miêu.
Dặn tấm lòng, ai dỗ cũng đừng xiêu
Ở nuôi Thầy Mẹ, sớm chiều cũng có anh.
Các địa danh Tý Sé, Hòn Kẻm, Đá Dừng nhưng chúng ta chưa một lần bước chân đến đó. Xem lại bản đồ Quảng Nam địa danh trên nằm trên sông Thu Bồn phát xuất từ trên nguồn chảy qua giữa quận Quế Sơn và Đại Lộc, nhưng thuở xa xưa có thể người ta đến đó làm việc, trên sông dưới nước với cảnh khỉ ho cò gáy, nhớ về Mẹlà nhớ về cuội nguồn dân tộc :
Ngó lên Hòn Kẻm, Đá Dừng
Thương cha nhớ mẹ quá chừng bạn ơi
Công ơn sinh thành của cha mẹ cao như trời, rộng như biển, con cái có lòng hiếu thảo đó là nguồn an ủi đối với cha mẹ lúc tuổi già. Nhắc lại tình mẫu tử cao quý, qua kinh nghiệm cuộc sống nhắn gởi ai còn cha mẹ nên giữ lòng hiếu thảo.
Lên non mới biết non cao
Nuôi con mới biết công lao Mẫu từ
Công cha như núi Thái Sơn,
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra
Người mẹ hiền thường răn dạy con gái qua ca dao như thứ luân lý thực hành :
Mình là con gái trong nhà
Hình dung yểu điệu nết na dịu dàng
Khi ăn khi nói chững chàng
Khi ngồi khi đứng bỉ bàng dung nghi
Sống với quê nhà bên lũy tra xanh, trên con đường làng bé nhỏ, hay phải đi xa một phương trời nào, khó có thể quên được quê hương xứ Quảng, kỷ niệm gắn bó cuộc đời, sau năm 1975 làn sóng bỏ nước ra đi tìm tự do, được định cư khắp nơi trên thế giới, hội nhập vào văn minh xứ người, nhưng nỗi lòng người ra đi viễn xứ vẫn canh cánh bên lòng nhớ thương về quê Mẹ, mỗi địa phương mang một đặc thù riêng :
Ai ơi cách trở sơn khê
Nhớ tô Mì Quảng, tình quê mặn nồng
Hội An đất hẹp, người đông
Nhân tình thuần hậu là bông đủ màu
Hội An bán gấm, bán điều
Kim Bồng bán cải, Trà Nhiêu bán hành
Chiêm Sơn , là lụa mỹ miều
Sớm mai mắc cưởi, chiều chiều bán tơ
Chồng em là lái buôn tiêu
Đi lên đi xuống Trà Nhiêu, Kim Bồng
Cây đa chợ Hội An
Dãy Trường Sơn chạy dọc theo bờ bể từ Nam Ô cho tới Chu Lai phần lớn dân số sống về nông nghiệp và ngư phủ cùng nhau phát triển kinh tế. Các quận trên nguồn như Tiên Phước, Quế Sơn...muốn ăn cá phải mua cá hấp chín, bán vào các buổi chợ sớm, các loại mắm người miền biển gánh lên nguồn đổi lấy ngũ cốc, tùy theo các muà, nhưng loại cá chuồn, người ta hay làm thính hay hấp, cá chuồn nấu với mít non một đặc sản ngon tuyệt vời :
Ai về nhắn với ngọn nguồng
Mít non gởi xuống , cá chuồn gởi lên
Trái bòn bon bé nhỏ nhưng có hương vị ngọt, ngày xưa khi vua Gia Long hái ăn lúc vượt núi băng ngàn để chống lại nhà Tây Sơn. Khi thống nhất sơn hà 1802,đặt tên trái bòn bon là “ Nam Trân “. Trái măng cụt tại miền Nam tên là “ Giáng Châu “, để nhớ lại lúc thiếu lương thực nhà vua và quân lính thường hái các trái cây trên :
Trái bòn bon trong tròn ngoài méo
Tráo thầu dầu trong héo ngoài tươi
Em thương anh ít nói ít cười
Ôm duyên ngồi đợi chín mười con trăng
Vùng biển cát trắng Nam Ô nằm dưới chân đèo Ải Vân, sản xuất nước mắm ngon không thua gì Phú Quốc hay Phan Thiết. Chúng ta ít nhất một lần ăn với dưa cải muối với nước mắm Nam Ô :
Nói cho lắm cũng nước mắm dưa cải
Nói cho phải cũng dưa cải nước mắm
Tường linh có những vần thơ đi vào văn học :
Đêm Đà Nẵng vọng về cơn gió biển
Bún chợ Chùa thương nước mắm Nam Ô
Quận Hoà Vang giáp Đà Nẵng có bến Đò Xu, ngả ba Hoà Cầm quận lỵ Cẩm Lệ nơi sản xuất nem, tôi không hút thuốc nhưng nghe người ta thường nói nơi nầy nổi tiếng một vùng trồng thuốc thơm ngon, gọi là thuốc lá Cẩm Lệ các vùng Thanh Quít cũng trồng cau, thuốc lá được các ghe thương gia tới mua bán :
Tơ cau thuốc lá đầy ghe
Hội An buôn bán tiếng nghe xa gần
Hội An làm bánh tổ một đặc sản, vùng Tiên Đỏa từ Hương An trở vào cho đến quận Thăng Bình, vùng cát trắng phau thích hợp cho việc trồng khoai lang :
Nem chả Hoà Vang
Bánh tổ Hội an
Khoai lang Tiên Đỏa
Thơm rượu Tam Kỳ
Quận Trà My tại Quảng Nam trồng Quế vỏ nhiều dầu, phẩm chất cao đặc sản nổi tiếng , các nơi khác trồng nhưng có thể xa khí hậu phong thổ chất lượng kém, bởi vậy khó nơi nào sánh bằng :
Quế Trà My thứ cay thứ ngọt
Bởi anh thợ rừng mới lọt tay anh
Phàn du, bạch chỉ rành rành
Cân tiểu ly mới xứng, ngọc liên thành mới cân
Quế sản phẩm như Yến ở Cù lao Chàm nổi tiếng thơm ngon và đắt tiền .
Đầy hàng tháng ngát mùi hương
Sửa quế người xem khá rộn ràng
Số chở hàng năm khôn kể xiết
Bán xong lại đến lấy thêm hàng ...
Lời ru ngọt ngào của mẹ hiền , tiếng ru à ơi ngọt ngào âm thanh kéo dài, trong những trưa hè nắng gắt, ru cho con giấc ngủ bình yên, liên khúc ca dao trữ tình như lời nhắn nhủ, lớn lên phải khôn ngoan vào đời. Nhờ truyền khẩu nên các bà thuộc lòng các câu ca dao kết hợp thành liên khúc ru con :
Ru con cho thét cho muồi
Để mẹ đi chợ mua vôi ăn trầu
Mua vôi chợ Quán chợ Cầu
Mua cau Nam Phổ mua trầu chợ Dinh ( tuỳ theo mỗi địa phương có thể thay tên chợ )
Công cha nghĩa mẹ chớ quên
Ơn vua lộc nước mong đền con ơi
Như vậy mới gọi rằng trai
Trên lo nghĩa Chúa, dưới mài Thảo thân
Con mèo trèo lên cây cau
Hỏi thăm chú chuột đi đâu vắng nhà
Chú chuột đi chợ đường xa
Mua mắm mua muối giỗ cha chú mèo
Các nàng được ví von như tấm lụa đào đẹp, như những giọt mưa sa trong mỗi dạo xuân về, con gái dịu dàng tha thước, nhưng thân phận so sánh như 12 bến nước trong nhờ đục chịu, tình yêu duyên nợ cột vào với nhau, tình yêu chỉ là giấc mơ cho phương trời viễn mộng ? Ngày xưa chịu ảnh hưởng gia đình “ cha mẹ đặt đâu con ngồi đó “ nhưng có câu “ ép dầu ai nỡ ép duyên “ :
Thân em như tấm lụa đào
Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai ?
Thân em như hạt mưa rào
Hạt sa bãi cát, hạt vào vườn hoa
Thân em như hạt mưa sa
Hạt vào đồng nội, hạt sa vũng lầy
Quảng Nam có những trang Sử oai hùng và bi đát, qua các cuộc đấu tranh chống lại thực dân Pháp. Tinh thần yêu nước hy sinh của sĩ phu và những người dân quê, họ sống trên cánh đồng lúa bờ dâu, hiền từ chất phát không hận thù. Dưới thời Pháp thuộc bị bóc lột đến tận xương tủy, nên mọi người cùng nắm tay nhau lên đường đấu tranh. Phong trào đấu tranh xin xâu giảm thuế phát xuất tại Quảng Nam, đánh dấu một kỷ nguyên mới dưới thời nô lệ :
Đất Quảng Nam từ năm Bính Ngọ ( 1906 )
Xâu ngũ nhật , công sưu công ích đường trường làm tội núi cao
Thuế bách phân gia ngũ, gia tam ,đủ ngón vét từng xu nhỏ
Mãi tới xuân này (1908 ) cực đà hết chỗ
Ra Tết trời làm tai biến , hạn hán tiêu khô
Nhiều nơi đất bỏ hoang dân tình đói khổ
Làn sóng đấu tranh nổ lên toàn tỉnh Quảng Nam sau đó kéo dài các tỉnh miền Trung :
Đời ông cho tới đời cha
Đời nào cực khổ như ta đời này
Ngoài đồng cắm cọc giăng giây
Vườn nhà đóng thuế, vợ gầy con khô
Đời xưa thuế một quan năm
Đời nay thuế lại hai đồng bốn giác
Con tay bồng tay dắt
Vợ tay đỡ tay mang
Vui chi mà hát mà mừng
Mua ngày mà ở cầm chừng với Tây
Từ ngày Tây chiếm Đế đô
Xâu cao thuế nặng, biết chừng mô hỡi trời !
Còn lo một nỗi khổ đời
Quan trên ỷ thế nặng lời hiếp dân
***
Kể từ Đồn Nhật kể vô
Liên Chiểu, Thủy Tú, Nam Ô ,xuống Hàn
Hà Thân, Quán Cái, Mân Quang
Miếu Bông, Cẩm Lệ là đàng vô ra
Ngó lên chợ Tổng bao xa
Bước qua Phú Thượng , Đại la, Cồn Dầu
Cẩm Sa, Chợ Vải, Câu Lâu
Ngó lên đường cá, thấy cầu Giáp năm
Bây chừ thiếp viếng, chàng thăm
Ở cho trọn nghĩa, cắn tăm nằm chờ.
Thời tiết các năm ấy hạn hán bị mất mùa, thu hoạch ngũ cốc chưa đủ sống nhưng bọn sai nha thâu thuế lấy xâu không nương tay, chỉ muốn thu tiền cho đầy túi dâng bọn thực dân hưởng thụ, bắt dân phu đi làm đường, đào mỏ, sống chết mặc bây. Người dân Quảng Nam không chịu đựng cảnh người bóc lột người của thời nôl ệ, từ đó họ đã biến đau thương thành hành động :
Tháng giêng cho chí tháng hai
Con dân áo rách quần xài đi ra
Mười lăm cho đến ông già
Cơm đùm, ruột tượng , xuống toà lãnh ban
Chức sắc cho chí viên quan
Nguyễn Quý Đại
( “ Kỷ Yếu Hội Ngộ Phan Châu Trinh - Hồng Đức”, 30 năm xa xứ, 2005 tại Hải ngoại )