Trung Học Phan Châu Trinh

Star InactiveStar InactiveStar InactiveStar InactiveStar Inactive

Tiền và Thân Phận Làm Người Trong Văn Chương Việt Nam Thế Kỷ 19

Tạo vật bất thị vô để sự

Bòn chài ra một thứ quấy chơi

 Nguyễn Công Trứ


LavareR

Tiền là một thế lực kinh tế, cũng còn là một nguồn văn và  thi liệu cho văn chương. Tuy nhiên, khác với những đề tài như tình yêu , vẻ đẹp thiên nhiên, chiến công oanh liệt ...lúc nào cũng gây cảm hứng cho văn nhân thi sĩ , tiền chỉ xuất hiện và được nhắc nhở tới trong văn chương ở vào một giai đoạn lịch sử nào đó.

Trong xã hội Tây phương ngày trước , tầng lớp lãnh đạo, các chiến sĩ quý tộc ( bellatores ), chịu ảnh hưởng của triết học Hy Lạp và tôn giáo Gia - tô, coi của cải ở cuộc đời tạm bợ này như phù vân ( vanitas vanitatum, et omnia vanitas ) , nên tiền chẳng được nhắc nhở trong văn chương . Mãi đến về sau , khi có một sự thay đổi lớn lao trong cơ cấu xã hội , tiền mới được đề cập tới .

Lấy văn học Pháp làm tỉ dụ , chúng ta sẽ thấy tiền hay tư lợi không bao giờ là một đề tài chính trong những tác phẩm cổ điển . Những anh hùng trong các bi kịch của Corneille , mô tả bản chất con người qua những mối tình say đắm  đến mù quáng . Tiền tuy có xuất hiện ở một số hài kịch của Molière như “ Người biển lận “ ( L’Avare ), “ Kẻ trưởng giả học làm sang “ ( Le Bourgeois Gentil-Homme ) , nhưng hài kịch không phải là một thể loại nghiêm chỉnh ( genre sérieux ). Hơn nữa thái độ biển lận, keo kiệt qúa độ của Harpagon , hay hợm hĩnh vì tiền của ông Jourdain chỉ là những thói tật cá nhân ,hạ tiện , đối lập với tính cách quý tộc .

Qua thế kỷ 18 , tầng lớp “ petit-bourgeois “  ( tiểu tư sản ) phát triển ,” tiền “ được nói đến nhiều hơn vì đã có ảnh hưởng quyết định trong tương quan xã hội. Trong vở kịch “ Turcaret “ ( tên một thương gia giảo quyệt ) , Lesage ( tác giả ) cho thấy vì tiền mà con người thành ra xấu xa . Tất cả các nhân vật trong vở kịch , từ kẻ quý tộc cho đến nhà buôn, chí đến đứa ở đều lừa đảo nhau vì tiền , và kẻ có tiền là người ngự trị . “ Voilà le règne de M. Turcaret fini ; le mien va commencer “  ( Thời đại Turcaret qua rồi ; thời của tớ sắp bắt đầu ) , đó là lời tuyên bố của Frontin , một tên đầy tớ trở nên giàu có , nhờ những mánh khóe gian xảo và lừa bịp. Trong vở “ Les Fausses Confidences “ của Marivaux , vấn đề tiền đặt ra nhẹ nhàng hơn , nhưng chính sự chênh lệch về tiền là đầu mối trở ngại  cho mội tình giữa  chàng Dorante trẻ đẹp , nhưng lỡ vận , và nàng Araminte , goá phụ giàu sang và kiều diễm , dù cả hai thầm kín yêu nhau.

Le Bourgeois Gentil Homme

Kíp đến thế kỷ 19 , tiền trở thành một đề tài lớn . Victor Hugo đã đề cập đến tiền trong nhiều tác phẩm của mình .Đặc biệt vào cuối thế kỷ tiền là luận đề chính cho bộ tiểu thuyết hiện thực nhiều tập về gia đình Rougon Macquart của Émile Zola : L’Argent, La Curée...

Ở Á Châu , tại các nước chịu ảnh hưởng sâu sắc của Nho giáo  , như nước ta , xã hội chia ra bốn giai cấp là sĩ , nông , công , thương . Kẻ sĩ , đứng đầu, tuy có một tinh thần khác với quý tộc Tây phương , nhưng nói chung , cũng coi thường giá trị tiền, đặt đạo đức lên trên tư lợi . Lời Mạnh Tử đáp lại Lương Huệ Vương là một khuôn vàng thước ngọc cho nhà nho : “ Vương hà tất viết lợi ; diệc hữu nhân nghĩa nhi dĩ hỉ ? “ Vua nói chi đến điều lợi , xin chỉ nói chuyện nhân nghĩa  ) . “ Thúc Hướng hạ Tuyên tử “ là một câu chuyện khác tượng trưng  thái độ nhà Nho đối với tiền hay phú quý . Tuyên Tử than nghèo , nhưng Thức Hướng lại mừng cho Tuyên Tử  ( Tuyên Tử ưu bần , Thúc hướng hạ chi ) . Và sau những lời trình bày chí nhân chí nghĩa của Thúc Hưởng , Tuyên Tử  đã cúi đầu cảm ơn Thúc hưởng giúp mình giữ được cảng nghèo trong sạch , đạo đức : “ Khởi dã tương vong , lại tử tồn chi “  ( Khởi này sắp suy sụp , nhờ bác giữ lại ).

Theo đạo lý Khổng Mạnh xưa , không có gì quý hơn là biết vui sướng trong cảnh nghèo trong sạch . Quan niệm đạo đức ấy đã chi phối mạnh mẽ nền văn chương của chúng ta . Và vào thời trước , văn chương chỉ là một hình thức để phát huy đạo đức  ( Văn dĩ tải đạo ) , nên suốt từ lúc mới thành hình cho đến đầu thế kỷ 19 ,thật khó tìm thấy trong văn học Việt một bài thơ hay bài phú than thở vì nghèo , nói chi đến việc đề cao tiền.

Đồng tiền xem ra thật hiền hoà trong thi ca của Nguyễn Trãi . Tiền chỉ là một phương tiện để tương thân tương ái , đùm bọc lấy nhau trong lúc hoạn nạn :

Đồng tiền , bát gạo mang ra ,

Gọi là cần kiệm chút là làm duyên .

()

 Nguyễn Bỉnh Khiêm ở vào một thời đại phức tạp hơn , nhận rõ nhân tình thế thái , nên đã đề cập đến tiền trong những khía cạnh xấu xa . Tiền thay đổi lòng người :

Còn tiền còn bạc còn đệ tử

Hết cơm hết rượu hết ông tôi

Nhưng trong thơ của Nguyễn Bỉnh Khiêm , tiền vẫn chưa phải là một thế lực độc ác ghê gớm , đè bẹp giá trị con người . Tiền có thể thay đổi lòng người , nhưng giàu , nghèo không khác nhau, con người có thể sống nhàn hạ mà tiền chẳng có ảnh hưởng gì đến :

Giàu ba bữa , khó ba niêu,

Yên phận thì hơn hết mọi điều

Khát uống chè mai hơi ngọt ngọt

Sốt kề hiên nguyệt gió hiu hiu .

Cuộc sống vẫn hiền hòa , nghèo khó càng làm rạng rỡ thêm đạo đức :

Khó khăn mới biết người quân tử

Ngheò hiểm thì hay tiết trượng phu

Ngay trong những tác phẩm có tính cách đại chúng , những nhân vật chính , cũng thường là những kẻ “ áo rách khố ôm “  như Thạch Sanh, Trần Miên khố chuối, Phạm Công , Phạm Tải...Tuy nghèo đến rớt mồng tơi nhưng chẳng có một ai tham tiền . Tiền không bao giờ làm cho họ băn khoăn, thắc mắc, và cũng không bao giờ vì tiền mà hành động trái nhân nghĩa .

Tuy nhiên đã có một sự thay đổi , có thể nói là đột ngột và lớn lao từ buổi giao thời của hai thế kỷ 18 và 19 cho đến lúc tàn cuộc nền văn chương chữ Nôm . Đồng tiền từ bấy giờ đã trở thành một đề tài quan trọng , xuất hiện trong văn học  như một thế lực mạnh mẽ khác thường , gây ra nhiều biến động tinh quái và tàn ác trong xã hội. Con người dù muốn yên cũng không yên được trước thế lực của tiền .

Nếu lấy truyện  Kiều làm cái mốc cho thời giao nhau cuả hai thế kỷ , thì chính Kiều đã mở đầu cho đề tài tiền trong văn học Việt nam . Xét theo những phương tiện căn bản trong nội dung , có thể gọi Kiều là một câu chuyện tình bi đát , là thân phận của người phụ nữ trong xã hội phong kiến , là câu chuyện của một tiếng đàn , vì chuyện kết thúc thì đàn cũng được cuốn dây :

Một phen tri kỷ củng nhau

Cuốn dây từ đấy , về sau cũng chừa

Cũng có thể gọi là chuyện tài mệnh tương đố , “ nhất phiến tài tình thiên cổ lụy “ hay chuyện túc trái tiền duyên :

Đoạn trường sổ , rú tên ra

Đoạn trường thơ ,phải đưa mà trả nhau

Có thể kể thêm nhiều khía cạnh khác nữa , nhưng có một khía cạnh chủ yếu , ít khi , hoặc chưa được đề cập đến , ấy là tiền . Lý do không được chú ý tới có lẽ vì tiền có tính cách quá thực tế, trái với tính chất đầy thơ mộng ,đầy tình cảm tế nhị của áng văn mà Mộng Liên Đường chủ nhân gọi là “ máu chảy ở đầu ngọn bút, nước mắt thấm trên tờ giấy .”

Nhưng nếu xét trên khía cạnh tiền , thì có thể xác định Kiều là chuyện của đồng tiền ; nói khác đi , cuộc đời đau khổ của Kiều ,hay thân phận của của con người nói chung , chìm nổi theo thế lực của tiền .

Vương Viên ngoại không giàu , nhưng tương đối cũng có đôi chút tiền của “ thường thường bậc trung “ , như Nguyễn Du đã nói :

Gia tư nghĩ cũng thường thường bậc trung

Giả thiết Vương ông không ở vào “ bậc trung “ , thì chắc thằng bán tơ kia đã không “ dở dói “ , mà sai nha cũng chẳng ập vào nhà để “ vét cho đầy túi tham “rồi sau đó  “làm cho khốc hại “ . Giả thiết nữa là nếu gia đình Kiều có được ba trăm lạng , cất dấu đâu đó , thì cuộc đời của Kiều đã đổi khác , Kiều đã không bán mình để chịu mười lăm năm lưu lạc :

Tính bài lót đó, luồn đây

Có ba trăm lạng việc này mới xuôi.

Và thật vậy , Nguyễn Du đã nhiều lần nhắc đi nhắc lại thế lực yêu quái của tiền . Tiền xóa mờ hết đạo nghĩa , công lý chỉ dựa vào tiền  :

Tiền lưng đã có việc gì chẳng xong !

Nói thế hình như chưa đủ , Nguyễn Du đã lập lại cùng một ý ở đoạn ngay sau đó  :

Trong tay đã sẵn đồng tiền

Dẫu lòng đổi trắng thay đen khó gì !

Khi đã có tiền thì Vương ông không những được “ tại ngoại hầu tra “ ( tạm lĩnh Vương ông về nhà ) , mà việc “ tụng kỳ “ cũng chấm dứt nhanh chóng :

Lễ tâm đã đặt , tụng kỳ cũng xong  .

Chưa bao giờ trong văn học Việt Nam , tiền được nhắc nhở về nhiều mặt và đã quyết định cái hình thái của xã hội như trong Đoạn Trường Tân Thanh . Tiền đã đưa xã hội đến chỗ trụy lạc ,và hình thức tổ chức trụy lạc thật qui mô . Lâm Chuy cách Bắc Kinh đến một tháng đường dài  ( Lâm Chuy vừa một tháng tròn tới nơi                              ) , thế mà Kiều ở Bắc Kinh vừa lên tiếng bán mình , tin đã tới ngay Tú Bà ở Lâm Chuy . Mụ này sai Mã Giám Sinh , một tay ăn chơi về già và chính cũng là chồng của mụ ta , đến ngay Bắc Kinh để mua Kiều về . Vốn một tay ăn chơi sành sõi, quen chuyện lừa lọc bán phấn buôn son , chẳng có độ lượng nào trước nỗi đau của người khác , thế mà rút cuộc việc buôn bán cũng đã ngã giá rất cao :

Cò kè bớt một thêm hai ,

Giờ lâu ngã giá , vàng ngoải bốn trăm .

Lẽ tất nhiên ở đây chúng ta không nói đến giá trị của Kiều như một con người tài hoa . Dù mụ mối khéo mồm khéo mép đưa giá Kiều lên tới ngàn vàng , giá ấy cũng không tương xứng vì làm sao có thể đánh giá một người tài hoa ! Chỉ xét Kiều như một nạn nhân , một món hàng mà Tú Bà mua về cho thanh lâu , thì món hàng đó thật là đắt giá . Thử làm một bài tính để tính xem Tú Bà đã pahi tốn kém bao nhiêu để mua được Kiều , và cũng thử tính để suy ra vốn liếng của Tú Bà , chúng ta sẽ thấy tài sản của Tú Bà thật đồ sộ . Dù không so sánh được với nhữnh chủ nhân ở đô thị “ Những đồng bằng phì nhiêu “ ( Las Vegas ) tại U.S.A , nhưng cũng khá kếch sù ! Tú Bà có những tay đàn em đểu giả loại Sở Khanh , sẵn sàng thực hiện âm mưu của mụ theo những hình thức tinh vi và qui mô ,”  song song ngựa trước , ngựa sau một đàng “ ; có hàng chục hay hàng trăm  “ tiểu Kiều “ , dầu không đắt giá như Kiều nhưng chắc cũng chẳng rẻ . Lại còn có cả lầu Ngưng Bích để sẵn sàng  “ khóa buồng xuân  ...đợi ngày đào non “ cho những người muốn “ thác trong “ như Kiều .

Một tổ chức thanh lâu khác trong Đoạn Trường Tân Thanh là của Bạc Hà và bọn “ đồng môn “ ở Châu Thai . Tổ chức này , như Nguyễn Du mô tả , “ cũng phường bán thịt , cũng tay buôn người “ , qui mô chẳng kém gì tổ chức của Tú Bà . Và nên chú ý Lâm Chuy  ( Sơn Đông ) và Châu Thai ( Chiết Giang ) , nơi Tú Bà và Bạc Bà mở “ hành viện “ , chỉ là những địa phương xa xôi , nói gì đến những nơi thị tứ ! Lại suy theo cách ăn chơi của những khách du như Thúc Sinh :

“ Trăm nghìn đổ một trận cười như không “

thì Tú Bà kiếm vào chắc không ít . Bọn Bạc Bà , Bạc hạnh không phải quá đáng “ nhất bản vạn lợi “ như con buôn thường ước mơ nhưng cũng một vốn mười lời :

Xem người định giá , vừa rồi

Mối hàng một, đã ra mười , thì buông .

Thế lực của tiền ở Đoạn Trường Tân Thanh còn được phơi bày ra trong hình thức đồng tình kết hợp của hai tầng lớp thương nhân và phong kiến .

Bản thân Thúc Sinh là một tiêu biểu cho sự kết hợp đó . Thúc Sinh không những là một thương nhân giàu có , lại thuộc về giòng dõi quý phái :

Khách du bỗng có một người ,

Kỳ Tâm họ Thúc ,vốn nòi thư hương .

Vốn người huyện Tích , châu Thường ,

Theo nghiêm đường mở ngôi hàng Lâm Chuy .

Cuộc hôn phối giữa Thúc Sinh và Hoạn Thư , con quan Chủng tể  ( Tể tướng ) lại  càng tiêu biểu hơn . Ngày trước gia đình bên vợ và bên chồng phải là môn đăng hộ đối , nghĩa là không những giàu có tương đương , mà giáo dục và gia phong cũng giống nhau .

Có tiền và có quyền , Thúc Sinh hành động liều lĩnh , đem Kiều giấu diếm một nơi , bất chấp nghề ngón của Tú Bà :

Mượn điều trúc viện thừa lương ,

Rước về hãy tạm giấu nàng một nơi .

Rôi sau đó lấy tiền và thế lực để chính thức chiếm đoạt Kiều từ tay Tú Bà  :

Rõ ràng của dẫn , tay trao ,

Hoàn lương một thiếp , thân vào cửa công .

Cũng vì giàu và quyền thế nên Hoạn Bà và Hoạn Thư đã có “ lũ côn quang “ , có “ gia pháp nhà tao “ , coi giá trị con người chẳng hơn “ con ong cái kiến “ , vu vạ cho Kiều những tính nết xấu xa : “ mèo mả , gà đồng “, “ trốn chúa, lộn chồng “ , để rồi xóa mất đi “ căn cước “ ( identity ) của Kiều theo ý muốn . Đổ họ, đổi tên , làm mất dấu tích , thay thế “ thượng đế “ bản xứ bằng một “ thượng đế “ mới là điều mà bọn người áp bức , hay thực dân xâm lược thường làm đối với kẻ yếu hèn hay dân bị trị . Cho nên Hoạn Bà đã đổi tên Thuý Kiều :

Hoa nô truyền dạy đổi tên ,

Buồng the , dạy ép vào phiên thị tì .

Sau này Hoạn Thư cũng theo cách đó để “ thủ tiêu “ tình địch :

Aó xanh đổi lấy cà sa ,

Pháp danh lại đổi tên ra Trạc Tuyền .

(  Xin phân biệt việc tự ý đổi tên và việc bị áp đặt một tên mới )

Tiền trong Đoạn Trường Tân Thanh có một sức phá hoại ghê gớm . Tiền lũng đoạn quan trường , và như đã nói bên trên , nếu Vương ông không có tiền thì thằng bán tơ đã không “ dở dói “ , sai nha chẳng ập vào nhà để “ vơ vét “ và Kiều đã sống một cuộc sống hạnh phúc .

Tiền cũng được dùng như một thủ đoạn chính trị , để thương lượng và mua cuộc . Hồ Tôn Hiến , một viên quan “ Kinh luân gồm tài “ đã dùng tiền bạc như một thứ vũ khí :

Đóng quân làm chước chiêu an ,

Ngọc ,vàng , gấm , vóc, sai quan thuyết hàng .

Lại riêng một lễ với nàng

Hai tên thể nữ , ngọc vàng nghìn cân .

Và thứ vũ khí tiền đó đã thành công . Từ Hải ra hàng vì nhniều lý do , trong đó , có lý do quan trọng là Kiều đã xiêu lòng trước tiền . Nguyễn Du xác nhận  :

Nàng thời thật dạ tin người ,

Lễ nhiều , nói ngọt nghe lời dễ xiêu .

Tiền còn được nhắc nhở tới nhiều lượt nữa , điển hình một vài trường hợp sau đây : Trước lúc trốn khỏi Quan Âm các ở nhà Hoạn Thư , Kiều nghĩ đến tiền để phòng thân :

Chỉ e quê khách một mình ,

Tay không chưa dễ tìm đường ấm no !

Nghĩ đi nghĩ lại quanh co ,

Phật tiền sẵn có mọi đồ kim ngân .

Bên mình giắt để hộ thân ...

Kiều dấn bước vào cuộc đời luân lạc , lòng nặng những lo âu : không thanh thản , vô tư như những kẻ bần hàn ngày xưa . Phạm Công , Lý Công ..., dù thiếu thốn mọi bề , phải đi ăn mày để nuôi thân và để nuôi cả mẹ , nhưng luôn luôn tin tưởng , vẫn giữ vững được tinh thần để học hành và làm nên sự nghiệp .

Tiền là giải pháp cho mọi vấn đề , là phương tiện để trả ân trả nghĩa , là hình thức bày tỏ ý chí , tâm tình của mình . Kiều đã tạ lòng chàng Thúc bằng :

Gấm trăm cuốn , bạc nghìn cân .

Sư trưởng Giác Duyên cũng được thưởng tiền  :

Nghìn vàng gọi chút lễ thường .

Về sau này , lúc quyết tâm đi tìm Thuý Kiều , Kim Trọng cũng nghĩ đến tiền như một phương tiện cần thiết :

Bao nhiêu của , mấy ngày đàng ,

Còn tôi , tôi gặp mặt nàng mới thôi .

Qua rồi , ngày con người Việt hoàn toàn tin vào đạo đức nhân nghĩa , vui sướng trong thanh bần . Từ buổi giao thời hai thế kỷ  18 và 19 , con người bắt đầu tin và đã tin mạnh mẽ vào thế lực kim tiền .

Nhưng tin vào tiền : “ có tiền mua tiên cũng được “, không giống như tin vào Đức Phật cao siêu , Đức Quan Thế Âm cứu khổ cứu nạn , hay một đấng Thượng Đế toàn năng , có thể hổ trợ cho chúng ta chống lại moị cám dỗ cuả ma quỷ . Tin vào tiền có nghĩa là ý thức tiền là một thế lực lớn trong xã hội , thường thường có tính cách tiêu cực , quỷ quyệt , tinh ranh ,làm điên đảo cương thường , phá hoại đạo lý ..., để rồi người tin có lúc phải cảm thấy ray rức , chua xót ,ê chề , sỉ nhục vì tiền .

Mà thật vậy , chẳng mấy lâu sau Nguyễn Du , Nguyễn Công Trứ và Cao  Bá Quát, rồi Nguyễn Khuyến và Tú Xương ...đều có những câu đối , những bài thơ , bài phú than nghèo , vịnh nghèo , mỉa mai , nguyền rủa đồng tiền, vì tiền không những phá hoại những lớp người yếu đuối như Kiều , tiền còn phá hoại ngay cả đến các kẻ sĩ , các nhà nho .

Nguyễn Công Trứ  thường được xem như là nhà thơ ca tụng chí nam nhi và nhàn tản , nhưng một phần khá lớn thi phẩm của ông đã nói về cảnh nghèo , về tiền. Cứ lật bất cứ một cuốn sách giáo khoa nào của bậc trung học ở miền Nam Việt Nam trước 75 , đều có thể bắt gặp những bài thất ngôn nói về Cảnh nghèo , bài phú Hàn nho phong vị , bài ca trù về kim tiền . Bài “ Hàn nho phong vị phú “ là một bức tranh sinh động mô tả  cảnh cơ cực của một nhà nho cùng khổ và thái độ hợm hĩnh của bọn trọc phú :

 “Than thỉ to to nhỏ nhỏ , ta đã mỏi cẳng ngồi trì

Dần dà nọ nọ kia kia , nó những vuốt râu làm bộ “

Dù lời văn có tính cách châm biếm , cợt nhả ; dù viện dẫn những tích người xưa , chàng Khuông , chàng Vũ ...để giữ lòng bình tĩnh , dù cho rằng “ khó bởi tại trời, giàu là cái số “ , nhà thơ làng Uy Viễn vẫn không che dấu được nỗi chua chát của mình trước thế lực kim tiền . Cái phong vị của kẻ hàn nho chỉ là cái phong vị lẫn nhiều mùi xót xa , cay đắng . Đồng tiền trong thời Hồ Xuân Hương , trước Nguyễn Công Trứ không lâu , chỉ là “đồng tiền hoẻn “ , đến thời đại Nguyễn Công Trứ , “ cái vật tầm thường ấy “ đã trở thành một vị thần linh .

Khả quai tầm thường a đổ vật

Khước giao đáo để đại thần linh .

 ( Khá lạ cho vật tầm thường ấy , mà thành ra vị thần linh to )

“ Ai cũng kẻ vì người yêu “ , vị thần linh ấy lại có quyền năng phi thường . Tiền không những xếp đặt yên ổn chuyện vợ chồng trong gia đình , giúp  cho tài năng phát đạt ở đời này :

Đường om xòm chớp giật , sấm ran,

Nghe róc rách gió hoà mưa ngọt

Kẻ tài bộ đã vào phường vận đạt ,

Không ngươi cũng ải với cỏ cây ...

( Vịnh Kim Tiền )

lại còn có thể giải quyết được những chuyện ở thế giới vô hình  :

Tiếng xỏng xảnh đầy trong trời đất ,

Thần cũng thông huống nữa là ai .

( Vịnh Kim Tiền )

Một bài phú thường được đối chiếu với bài “ Hàn nho phong vị phú “ là bài “ Tài tử đa cùng phú “ của Cao Bá Quát. Lời văn tài tử , bóng bẩy thật xứng với danh thánh Quát , nhưng nội dung cũng đượm một nỗi niềm chua chát , buồn tủi , đậm đà hơn cả ở Nguyễn Công Trứ . Con người nghèo trong “ Hàn nho phong vị phú “ còn đứng ở bên rìa xã hội ( marginal ) , còn có thể  “mỏi cẳng ngồi chờ “ , đến “ Tài tử đa cùng phú “ thì đã mất hẳn chỗ đứng : “ Song nghĩ lại trần ai không đếch chỗ “. Cô đơn , trống trải , u buồn là số phận của kẻ không tiền :

Lều nho nhỏ kéo tấm tranh lướp tướp , ngày thê lương  , hạt nặng giọt mưa sa ;

Đèn cỏn con gom chiếc chiếu lôi thôi , đêm tịch mịch , soi chung vừng trăng tỏ “

Kết hợp những vế này trong bài phú với câu đối dán ở nhà dạy học mới cảm thấy cái cô độc , lẻ loi của kẻ nghèo :

“ Nhà trống ba gian , một thầy , một cô , một chó cái ;

Học trò dăm đứa , nửa người , nửa ngợm , nửa đười ươi .”

Tiền đã xua đuổi con người đi vào một xã hội không còn là người nữa ,nếu không hẳn là xã hội loài thú . Không có kẻ cảm thông , không có người thân thích , Cao Bá Quát , cũng như Kiều , vì tiền mà đã đi đến chỗ chỉ còn biết đối diện với chính mình  :

Nghĩ mình , mình lại thương mình xót xa .

Bản thân mình và xã hội đều đượm một màu xơ  xác .Bài “ Gặp người đói giữa đường “ ( Đạo phùng ngạ phu ) mô tả một người thiếu cơm, thiếu áo mà Cao Bá Quát đã gặp trên đường , nhưng người ấy cũng là thảm cảnh của chính mình ,của lớp sĩ phu nghèo khó ,thất thểu, tơi bời .

“ Tiến vi quan , thối vi sư “ , thành đạt thì làm quan ,không thành đạt thì trở về làm thầy , thầy đồ và thầy thuốc . Nhưng cả đám  thầy thuốc đều không có bệnh nhân  :

Kinh đô chẳng ai ốm...

Thầy thuốc từng đống ngồi .

( Đạo phùng ngạ phu )

Có thật người ở kinh đô đều khoẻ mạnh ? Mà kinh đô nào đây ? Huế hay Thăng Long ? Trước sức đe dọa của ngoại bang , trước loạn lạc lung tung trong nước, người ta chỉ khỏe mạnh vì lòng ích kỷ , vì biết nhắm mắt lại trước điều bất nghĩa , để có tiền , để sung sướng . Riêng chỉ có “ đống “ thầy thuốc , hạng người muốn chữa bệnh cho con người và cho xã hội , mới ốm đau , thất thểu ; ốm vì nghĩ đến đạo đức , rồi từ đó ốm vì đói . Phương thuốc chữa căn bịnh này là xóa bỏ trật tự khác . Cao Bá Quát đã suy nghĩ như thế trong văn chương :

Đừng thấy người bạch diện thư sinh ;

Mà cười rằng đa cùng tài tử “

và trong thực tế cũng đã hành động theo ý nghĩ của mình :

Bình Dương , Bồ bản , vô Nghiêu Thuấn,

Mục dã, Minh điều, hữu Võ Thang .

Tiền đè nặng lên giá trị con người , khí phách hiên ngang của kẻ sĩ hay của con người nói chung đã bùng lên trước bần cùng nhưng để rồi tàn lụi dần !

Nguyễn Khuyến đã có một cái nhìn tổng quát về tiền. Ông nhớ lại chuyện xưa , rồi so sánh với chuyện ngày nay và hờn mát đồng tiền :

Có tiền việc ấy mà xong nhỉ ?

Đời trước làm quam cũng thế ư ?

Đó là một câu hỏi bao hàm nhiều ý nghĩa . Vì tiền mà quên mất công lý là chuyện đáng ngạc nhiên đời trước , nhưng trong thời buổi này thì có gì đáng lạ  ! Sự kiện tiền bẻ cong công lý đã trở thành thong lệ phổ quát :

Cậy cái bảng vàng treo nhị giáp

Nẹt thằng mặt trắng lấy tam nguyên

Tiền đã tàn phá sâu sắc đạo đức nhân nghĩa trong xã hội , không còn có phương thức để sửa chữa cũng như một cuộc cờ “ không còn nước “. Nguyễn Khuyến đành giả lơ , giả điếc ,giả làm ông phổng đá ,ông tượng đất để giữ chút lòng ngay thẳng , trong sạch trước đồng tiền :

Ông đứng trông trời sướng thế ông ,

Tơ vương chẳng bợn chút hơi đồng .

(  Ông tượng đất )

Nhưng đến Tú Xương thì con người không thể nào không “ bợn đến hơi đồng “ nữa . Tiền bạc đã ngự trị trên hết . Chính Tú Xương đã nhận xét :

Phàm kim chi nhân duy tiền nhi dĩ

( Phàm người bây giờ chỉ thích tiền mà thôi ) . Con người bây giờ bị dập vùi , xơ xác theo tiền bạc . Bản thân Tú Xương , vợ con , gia đình ông ,tất cả đều tan nát :

Bố ở một nơi , con một nơi,

Bấm tay tháng nữa hết năm rồi.

( Than thân )

Tiền đã phá hoại thể xác lẫn tinh thần của ông và của cả gia đình ông :

Bức sốt nhưng mình cứ áo bông

Tưởng rằng ốm dậy hóa ra không

Một tuồng rách rưới con như bố

Ba chữ nghêu ngao vợ chán chồng

( Mùa nực mặc áo bông )

Thời đại con người giữ khí phách hay dửng dưng trước đồng tiền hầu như đã đi qua , bây giờ chỉ còn nghe những lời van vỉ :

Van nợ có khi trào nước mắt

Chạy ăn từng bữa toát mồ hôi

( Than nghèo )

Cao Chu Thần , tuy không có chỗ đứng trong xã hội nhưng còn có một mái lều tranh , có vợ , có con  chó cái , với dăm ba đứa học trò , Tú Xương thì hết sạch sành sanh , bán cả nhà , cả vợ lẫn con  :

Khách hỏi nhà ông đến

Nhà ông đã bán rồi

Vợ lăm le ở vú

Con tấp tểnh đi bồi

Con người vong gia thất thố đó đã phải bó tay trước đồng tiền . Tất cả nghị lực , khí phách ngày xưa bây giờ chỉ còn là những lời chửi đổng hay cái ký ức tuy cảm động nhưng thật mơ hồ về một người bạn cách mạng nơi chốn xa xăm :

Ta nhớ người xa cách núi sông

Người xa , xa có nhớ ta không ?

Nhìn chung mà nói , tiền đã chính thức xuất hiện như một đề tài quan trọng trong nền văn chương của chúng ta vào buổi giao thời của hai thế kỷ  18 và  19 . Từ bấy giờ cho đến cuối thế kỷ 19 là lúc mạt vận của văn Nôm  , tiền đã tấn công tàn phá, đày đọa thân phận làm người . Trong Đoạn Trường Tân Thanh , Nguyễn Du còn đứng ở ngoài cuộc như một người quan sát để nhìn tiền tàn phá con người và xã hội, dù con người và xã hội ấy đã có liên hệ chặt chẽ với ông . Từ Nguyễn Công Trứ trở đi, con người bị tiền đày đọa không phải là con người tha nhân, mà chính ngay là bản thân các tác giả . Khí phách hiên ngang của con người dần dần mất đi . Đến Tú Xương thì cuộc tàn phá của tiền hầu như đã hoàn thành , số phận con người trở nên bi đát , tài năng không còn đường tiến .

Tiền đã xuất hiện trong văn học Tây phương đúng vào lúc tầng lớp tư sản ( bourgeoisie ) trở nên giàu có với cuộc đổi mới về kinh tế và cách mạng kỹ nghệ . Nhưng còn ở nước ta thì vì lý do gì mà tiền đã trở thành một đề tài quan trọng trong nội dung văn chương và tư tưởng ? Nghiên cứu vấn đề này có lẽ là công việc của các nhà xã hội học, kinh tế học và sử học . Đứng về mặt văn học chúng ta chỉ nhận xét là thân phận con người và tiền đã quan hệ chặt chẽ với nhau trong thế kỷ 19 và trong lúc thế lực của tiền đã phát triển đi lên theo thời gian thì thân phận con người càng ngày càng sa sút , trở nên xơ xác , bi thảm . 

San Diego , muà đông  1993

Nguyễn Đăng Ngọc

Star InactiveStar InactiveStar InactiveStar InactiveStar Inactive

 

Kính tặng Thầy Hoàng Bích Sơn

thayHBSon

Với chiếc cặp da to, màu vàng cũ kỷ

Áo sơ mi, quần tây dài giản dị,

Mái tóc ngắn và ánh mắt ngời sáng,

Thầy bắt nhịp bài ca “ Lên Đàng “.

Nào anh em ta cùng nhau xông pha lên đàng,

Kiếm nguồn tươi sáng,

Ta nguyện đồng lòng điểm tô non sông,

Từ nay ra sức anh tài.

Đoàn ta chen vai nề chi chông gai lên đàng,

Ta người Việt Nam.

Nhìn tương lai huy hoàng,

Đoàn ta bước lên đàng cùng hiên ngang hát vang ! ...”

 

Thầy đã viết cho chúng con được hát,

Mỗi sáng thứ Hai ngập nắng sân trường,

Mỗi chiều thứ Bảy vàng ánh hoàng hôn,

Lời bài hát “ Hiệu đoàn ca Phan Châu Trinh hành khúc “.

“ Phan Châu Trinh người chiến sĩ quốc gia bất diệt,

đã từng hy sinh tranh đấu cho dân quyền.

Ngàn đời còn ghi công ơn nhà chí sĩ

............................................................

Là học sinh Phan Châu Trinh ta quyết tiến

bước theo chân Người, giữ vững dân quyền

Rèn tâm chí, quyết chí, cùng nhau tiến, quyết tiến,

ghi nhớ ơn Người đoàn ta quyết đi lên ! “

 

Lòng thầy gởi theo bài ca hùng tráng,

Sẽ theo chúng con đến tận cùng năm tháng,

Vượt qua bao gian khó của cuộc đời,

Vẫn quyết tiến lên, phấn đấu để thành người,

Cho đến hôm nay khi mái đầu đã bạc,

Chúng con về đây, lòng vẫn ngân vang điệu nhạc,

Vẫn được thầy bắt nhịp cho chúng con,

Ôi hạnh phúc thay ! Hạnh phúc thật no tròn.

Thầy bắt nhịp bài ca thân thương nhất :

Bài “ Hiệu đoàn ca Phan Châu Trinh hành khúc “.

 chinh2

Nguyễn Văn Cư ( PCT 1965-72 )

( ĐS Kỷ niệm  60 năm thành lập trường Trung học PCT,Đà Nẵng . California 7 / 2012 )

User Rating: 5 / 5

Star ActiveStar ActiveStar ActiveStar ActiveStar Active

 TinhbenxeDap2

Có bao giờ em về ngang trường cũ

Nhắn giùm anh cây cỏ ngủ ven đường

Dù phiêu bạc mãi hoài nơi xứ lạ

Vẫn một lòng hoài nhớ một quê hương

Anh vẫn nhớ những tháng ngày năm ấy

Tay trong tay ta chập chững vào trường

Hàng phượng đỏ đón chào em đến lớp

Chút nắng vàng ngây ngất một mùi hương

hoa phuong hay nhat 10


Anh vẫn nhớ em ngồi đầu lớp học

Nắng sân trường len lén đến bên song

Từ cuối lớp anh bồi hồi ngây ngất

Mới buổi đầu suy nghĩ đã lung tung

Bài thầy giảng bỏ quên ngoài cửa lớp

Bởi trong anh chớm một mối tình si

Thầy có phạt, vẫn trộm nhìn em mãi

Hương bưởi nồng như sương khói tan đi

Em có nhớ về thầy K. dạy toán

Vẽ vòng tròn , tay phải trái như nhau

Hay thầy Khải, ngày đầu vào lớp học

Bạn nữ cười, thầy đỏ mặt quay mau

Anh vẫn nhớ thầy K. môn Vật Lý

Mặt rất hiền nhưng cũng rất nghiêm trang

Mỗi khi giảng cứ như đang ngậm kẹo

Vừa giảng bài vừa nuốt vội vào trong

Còn cô Liệu ơi hiền lành nhỏ nhắn

Lời cô phê trong học bạ năm nào

Anh vẫn nhớ, suốt đời anh vẫn nhớ

“ Giỏi, hiền, ngoan “, ngày ấy , chợt nôn nao

Anh ghét nhất là môn Vạn vật

Dù thầy T. thuở đó giảng rất hay

Anh không thích đem người ra mổ xẻ

Những cái gì trần trụi sẽ không hay

Anh thích nhất nghe thầy Hiền dạy triết

Dáng cao gầy nhưng mạnh mẽ vô biên

Anh cũng thích nghe thầy Lâm Thành Bích

Hướng dẫn mình năm cuối lớp Đệ tam

Năm Đệ Nhất thầy Kính làm hướng dẫn

Anh B 3, em B 4 chia xa

Anh ngồi đó nhớ nhung về lớp khác

Sợ cuộc tình rồi cũng sẽ phôi pha

Em có nhớ, ôi chao ơi là nhớ

Mỗi thầy cô, một khuôn mặt thân thương

Mỗi bóng cây, mỗi lớp học , sân trường

Nhớ con người, anh nhớ cả quê hương

Thay Ngoc

Và quê mẹ có những ngày tăm tối

Rời quê nhà anh bỏ xứ đi xa

Ngày mộng mị và đêm dài quay quắt

Một nỗi buồn sầu thảm lắm em ơi

Ôi, nỗi nhớ, những ngày thơ ấu cũ

Phan Châu Trinh, Đà Nẵng thuở xa xưa

Đời phiêu bạt anh xứ người dong ruổi

Nắng quê người, cứ ngỡ nắng xuân xưa

Anh sẽ mãi không về thăm nơi ấy

Em bây giờ cũng bỏ xứ ra đi

Ngôi trường cũ chỉ còn là kỷ niệm

Và cuộc tình ngày đó đã phân ly

MISA, PCT 1963-70

San Jose 2012

( ĐS Đại Hội Toàn Thế Giới Kỳ IV, California 1 tháng 7  năm 2018 )

Star InactiveStar InactiveStar InactiveStar InactiveStar Inactive

H10 thay Dao 4 000
̣
Vào những ngày đầu tháng hai năm Tân Mão (2011), cái lạnh của mùa đông dường như vẫn còn khắn khít với mãnh đất Miền Trung một cách “ thắm thiết “ quá ! Thường lệ, trong các buổi họp mặt bạn cũ trường Phan Châu Trinh niên khóa 1954-1960 , lớp do các anh Đoàn Văn Đạo. Trương Văn Tình, Mai Chánh Trí ( đã mất ), Tôn Thất Chơn Tu, Giang Lý Đương, Nguyễn Hữu Hùng, Đàm Văn Chí ...và các chị Thái Thị Hoài, Nguyễn Thị Khẩn, Châu Thị Mai, Lê Thị Kim Cúc...,( trong những năm gần đây có thêm chị Võ Thị Thương ở Canada về thăm quê ) vẫn thường đến tham dự các ngày họp mặt của nhóm.

Riêng tôi, Trương Duy Hy và luật sư Lê Xuân Hạt được các anh chị trong nhóm gọi là “ những chàng rể của lớp “ nên, với tôi thì được thay mặt Thanh Thảo ( Trần Thị Thảo Em, nk 54-60, đã mất ) , được nhận quyền lợi như lúc nhà tôi còn tại thế.

Trong các niên khóa từ 1951 đến niên khóa 1975, vì hoàn cảnh thực tế của đời sống , các bạn không cùng một lớp tập họp đầy đủ các anh chị đã học tại mái trường thân yêu nầy của chúng ta với con số 24 khóa, nên mới hình thành từng Nhóm theo niên khóa, và Nhóm 54-60 đã hình thành trong hoàn cảnh này. Lại thêm một thực tế nữa là sự gắn bó của anh chị em cùng nhóm, sống trong một thành phố thì dễ dàng liên lạc và gặp gỡ nhau hơn .

Trong các cuộc họp mặt tiễn đưa năm cũ, tiếp đón năm mới, nhóm chúng tôi hay tổ chức ở một nhà hàng nào đó mà các anh trách nhiệm biết rõ các món ăn và giá cả khả dĩ các thành viên trong nhóm hoan hỉ. Có những buổi gặp mặt, nhằm lúc có bạn ở nước ngoài về, tự nguyện đứng ra bao kinh phí cho buổi gặp mặt, thì quỹ của nhóm được giữ lại .

Có lúc không gặp mạnh thường quân, thì ban tổ chức trích quỹ “ xem như nguyệt liễm thường niên “, tuy không dồi dào lắm nhưng cũng đủ để dùng vào tổ chức tất niên, tân niên và nhất là xử dụng trong việc quan, hôn, tang, tế với tất cả tình cảm sâu nặng của các thành viên trong nhóm khi gia đình gặp cơn bất hạnh hay khánh hỷ, nhất là đối với các Thầy, Cô cũ.

Là chàng rể vốn tính “ trung thành “ với bên gia đình nhạc mẫu, nhạc phụ, hầu như chưa bao giờ tôi vắng mặt trong tất cả các buổi gặp mặt có thông báo của trưởng nhóm . Chẳng dấu gì cảm nghĩ của riêng tôi trước sự kiện này, bởi vì chỉ có một nhóm các bạn học cũ đã từng đốt lên được chất ấm lan toả khắp mọi gia đình thành viên chúng ta, những cựu học sinh Phan Châu Trinh Đà Nẵng.

Tình cảm này thắm thiết quá mà, tôi chắc rằng các nhóm khác niên khóa cũng có những niềm vui buồn, thân thương như chúng tôi.

Đối với các Thầy, các Cô, toàn thể thành viên trong nhóm đều có ý thức rằng : các bạn ở xa khó có điều kiện kịp thời cùng đến thăm viếng khi Thầy, Cô lâm bịnh, cũng như gặp lúc Thầy, Cô qua đời ...

Những việc như thế thường được các anh trách nhiệm của nhóm bàn bạc, rồi thay mặt các bạn đến tận nơi thăm viếng với những món quà ân tình , và nếu ở xa thì có điện thư kịp thời khánh hỉ hoặc phân ưu.

Là vai rế của nhóm, nhưng những sự kiện vừa kể trên là dấu ấn trong tôi để tôi quý mến , càng quý mến các bạn đồng khóa nầy. Cụ thể, nhân Thầy Trần Tấn bệnh nặng, nhóm kêu gọi anh em cùng đến thăm. Lúc Thầy qua đời, anh em tập hợp lại cùng đi vào Điện Bàn bái lạy, phụng cúng Thầy và chia buồn cùng tang gia.

Khi Thầy hiệu trưởng Bùi Tấn qua đời, tôi đã cùng anh chị em trong Nhóm thảo điện tín phúng điếu Thầy và nhờ các bạn đồng khóa đang ở Sài Gòn đem đến dâng lên bàn thờ Thầy hương đèn , trà quả như chính nhóm tại Đà Nẵng đến bái biệt Thầy. Bấy giờ các bạn có giao tôi chấp bút kính dâng lên Thầy bài thơ như sau :

KHÓC THƯƠNG THẦY

Tin hung như sét ngang trời

Chúng con sững sốt tơi bời ruột gan

Sao Thầy nỡ chán trần gian

Ra đi Thầy để muôn vàn tiếc thương

Từ khi cách biệt mái trường

Mang theo hình ảnh kính thương của Thầy

Đau lòng chúng lắm Thầy ơi !

 

Thử hỏi thế gian được mấy người

Niết Bàn thanh thản dạo rong chơi

Sử kinh Thầy dạy lừng nhân thế

Giáo lý Thầy khuyên hợp đạo trời

Nhự Lĩnh, Châu Trinh mây phủ lối ( 1 )

Thu Giang Ngưu Chữ lệ mờ khơi (2)

Khấu đầu đệ tử xin cầu nguyện

Cõi thọ đời đời được thảnh thơi

Kính lạy !

Còn việc “ khánh hỷ “, anh em trong nhóm cũng rất chu toàn bổn phận đối với Thầy, Cô. Đặc biệt năm 2003 , các anh Tuấn, Tình được tin Thầy Nguyễn Đăng Ngọc thượng thọ 80 , lập tức tin ấy được truyền khắp các thành viên trong nhóm tại Đà Nẵng. Sau một buổi họp mừng vui vì tuổi thọ của Thầy, các anh phụ trách nhóm cùng các thành viên quyết định làm một tấm thục thêu ba đại tự ở trên cùng và chính giữa có nội dung như sau :

                                                                      ĐẦU  TINH  CAO

                                                           Kính Mừng Thầy Hiệu Trưởng

                                                                NGUYỄN  ĐĂNG  NGỌC

                                                                THƯỢNG THỌ 80 TUỔI

                                                                      Quý Mùi 2003

                                                      Chúng con suốt đời ghi tạc công ơn Thầy

                                           Cựu học sinh Phan Châu Trinh niên khóa 1954- 1960  

Đối với hoàn cảnh bất hạnh của mình trong suốt 40 năm lại đây, có lẽ ở cái tuổi bát thập bây giờ, tôi mới thật sự hiểu hết nhân bản tính đã gắn chặt với đời sống của anh chị em chúng ta. Không ai có thể nghi ngờ  có được ngày nay là vì ngay khi tấm bé, các anh chị, cả tôi nữa đã học, đã được Thầy, Cô giảng giải nghĩa lý của những câu : Tiên học lễ, hậu học văn.

Công Cha như núi Thái Sơn.

Nghĩa Mẹ như nước trong nguồn chảy ra

Một lòng thờ Mẹ, kính Cha

Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con

Công Cha nghĩa Mẹ, chữ Thầy

Ráng mà học hỏi những ngày còn thơ

Với từng ấy sự kiện, tôi tin rằng anh chị em chúng ta vững tin ở thế hệ tương lai, thế hệ con cháu chúng ta sẽ có những thành đạt cao đẹp hơn để cuộc sống nhẹ nhàng, thanh thản hơn.

Rất mong ước được gặp các bạn trong những dịp họp mặt tại Đà Nẵng, nơi anh chị em chúng ta có quá nhiều kỷ niệm vui buồn lẫn lộn, nhưng rất thắm thiết, rất tuyệt vời.

Thy Hảo Trương Duy Hy

Đà Nẵng, đầu xuân 2012

 

Chú thích : (1) Ngự Lĩnh : Núi Ngự Bình

                     (2) Thu Giang : sông Thu Bồn ( con sông chảy qua sinh quán của Thầy ). Ngưu Chữ : Bến Nghé (con sông chảy qua thành phố, nơi Thầy qua đời )

( ĐS Kỷ Niệm 60 năm thành lập Trường Trung Học Phan Châu Trinh, Đà Nẵng.  Đại hội ngày 1 tháng 7 năm 2012 Anaheim, California )

                                                 

Star InactiveStar InactiveStar InactiveStar InactiveStar Inactive

 

 ConDuongLamebay13

Cho tôi đi qua con đường ấy

Sớm mùa xuân hay trưa nắng  hạ oi nồng

Đầu mùa thu về hay cuối một mùa đông

Con đường nhỏ hai hàng cây đứng lặng

Nhà người đó lầu cao cửa đóng

Lối ngõ buồn lá me rụng miên man

Chân tôi đi trên kỷ niệm từng trang

Mỗi bước chậm thương  mặt đường sỏi đá

Người còn nhớ thuở nắng hồng đỏ má

Người ấp e nhìn lên chấn song cười

Gió bên thềm thổi nhẹ lá me rơi

Cho huyền ảo đôi mắt người tha thiết

Lời chưa ngỏ đã thấy lòng bất diệt

Xao xuyến đam mê giữa rung động đầu đời

Nghe đắm say một tình yêu tuyệt vời

Như mật ngọt , như nguồn thơ lai láng

Rất đổi thủy chung  rất nhiều lãng mạng

Vai kề vai đi gữa lá me rơi

Tóc ai bay che kín cả bầu trời

Nên hôm nay tôi vẫn cứ đi về

Tìm chút hương xưa trên con đường ấy

Nghe dưới chân lá me vàng run rẩy

Nghe quanh mình gió động lá me chao

Ngóng mây trời tìm kiếm một vì sao

Đã có lần hai đứa nhìn cầu nguyện

Xin tình đẹp như sao trời vĩnh viễn

Sáng long lanh vời vợi  giữa bao la

Và mênh mông như suối một ngân hà

Để thầm nhủ tình vẫn còn ở đó

Em vẫn đứng xỏa tóc dài chờ đợi

Dầu tháng năm đã dâu bể đảo điên

Lá me buồn bay lả tả bên em ...

ConDuongLamebay6

Trần Hoan Trinh

(  “ Bỏ Trường Mà Đi “, 2002 )