Trung Học Phan Châu Trinh

User Rating: 5 / 5

Star ActiveStar ActiveStar ActiveStar ActiveStar Active

 

thaytang11

Và cây xanh ngói đỏ sân trường

Vẫn ám ảnh ta nửa đời còn lại

Bởi tha thiết nên còn thương nhớ mãi

Lòng vấn vương nên hồn cứ bâng khuâng

Giữa đêm nằm thấy nắng hạ trên sân

Trong giấc ngủ tưởng mình bên bục giảng

Trước mắt mờ bụi phấn bay lãng đãng

Và bên tai thoang thoảng tiếng trả bài

Chiều lang thang vẫn dừng bước cổng ngoài

Đứng ngơ ngẩn nhìn vào hành lang vắng

Giữa phố đông tìm hoài áo trắng

Thấy đâu đây ánh mắt học trò

Ngày tựu trường tiếng trống vọng hư vô

Cũng náo nức như mình còn đứng lớp

Đã biết đó nghề nghiệp này đen bạc

Sao lòng mong muối mặn gừng cay

Cả cuộc đời ai biết có hôm nay

Làm khách lạ giữa ngôi trường thân thiết

Ôi kỷ niệm một thời em mắt biếc

Ôi ân tình một thuở tóc ta xanh

Hỡi trường xưa còn ai nhớ ta không

Mà trơ trọi một mình bên thềm cũ

Bốn mươi năm cây đã thành cổ thụ

Nên hồn nghe hoang phế không ngờ

Ta trở về tìm lại chút hương xưa

Chỉ thấy nắng cuối sân trường run rẩy

Chỉ thấy lá trên hàng cây gọi vẫy

Và bên ta tiếng bàn ghế ngậm ngùi

Thấy đời mình bến đợi buồn thiu ...

Trần Hoan Trinh, 2002             

Star InactiveStar InactiveStar InactiveStar InactiveStar Inactive

niem hy vong

     “ Muà xuân là tuổi trẻ của năm – tuổi trẻ là mùa xuân của cuộc đời  “ ( Le printemps est la jeunesse de l’année, la jeunesse est le printemps de la vie ) . Nói bên này thì mùa xuân cũng là tuổi trẻ, mà nói bên kia thì tuổi trẻ cũng là mùa xuân. Mùa xuân hình như không dành cho tuổi già. Nhưng mùa xuân nào không có mùa đông, không già lấy chi có trẻ. Trẻ già chỉ là mặt này mặt kia của một người, nên nhân lúc xuân đến xin nói ít nhiều về già và trẻ…

     Con người rồi ai cũng già. Quyền thế, giàu sang, gì gì đi nữa cũng không cản được cái già. Không một người nào có thể trẻ mãi trong thân xác thịt da này. Đó là sự thật của ông Palice  ( verité de La Palice ), sự thật hiển nhiên đến độ ngớ ngẩn mấy cũng nhận thức được.

     Tuy nhiên ý niệm già trẻ không đơn giản. Người này nghĩ một đường, người kia nói một nẻo…Có những “trự” thanh xuân phơi phới mà hành xử như đã già nua. Trái lại có cụ lụ khụ  lù khù cứ bảo mình còn trẻ. Các tập đoàn, các cơ quan, các xí nghiệp cũng tùy tiện định mức tuổi già. Nơi 50, nơi 60 cho gia nhập Hội hoặc giả cho nghỉ hưu. Nghỉ hưu nghĩa là già rồi, không còn sáng kiến, không đủ sức làm việc…

       Giới mức già cũng thay đổi tùy theo thời đại, xã hội và văn hóa…Ngày trước ở nước ta, sáu mươi tuổi coi như đã già lắm. Các vị hoàng đế nhà Nguyễn không vị nào sống trên sáu mươi ! sách Quốc Văn giáo khoa thư lớp  Dự bị do các ông Trần Trọng Kim, Đỗ Thận, Nguyễn văn Ngọc và Đặng Đình Phúc biên soạn và do Nha Học Chánh Đông Pháp phát hành vào năm 1925 để giảng dạy ở tất cả các trường tiểu học trên khắp nước đã mô tả tuổi già qua bài “Ông tôi” như sau :

     “Ông tôi năm nay đã ngoài sáu mươi tuổi. Đầu,râu tóc bạc, da đã giăn (nhăn), má đã lõm( cọp), lưng đã còng (còm), đi đâu phải chống gậy.Ông tôi không phải làm việc gì nặng nhọc nữa. Thường ở nhà coi sóc cho cha mẹ tôi và dạy bảo chúng tôi. Thỉnh thoảng lại kể chuyện cổ tích cho chúng tôi nghe. Chúng tôi lấy làm thích lắm.Những khi đi học về, thường thường tôi lại đem những chuyện nhà tràng nói cho ông tôi nghe. Ông tôi lại nhân đấy mà giảng giải cho tôi học được nhiều điều khác nữa.”

     Mà đâu cần tới ngoài sáu mươi. Nhiều cụ cứ đến bốn,năm mươi, đã làm thơ tự thọ, nghĩa là mừng mình đã sống lâu, đạt tới tuổi già. Thời nay mà bảo các ông các bà trên bốn hay năm mươi, ngay cả trên sáu mươi hoặc giả bảy mươi là già thì sẵn sàng chờ lời trách mắng. Tuy nhiên cũng có trường hợp ngoại lệ. Năm 1945, ông Hồ Chí Minh mới 55 tuổi nhưng cả nước phải gọi là Bác Hồ, Cụ Hồ thậm chí là Cha già dân tộc. Ai đó tùy tuổi của mình,mà gọi khác đi ,em Hồ,anh Hồ hay chú Hồ,không những bị phiền trách mà chắc phải “ ủ tờ”.

     Bên kia trời Tây,con người hình như không ưa cảnh nhàn hạ sớm sủa nên có người đã bảo “ tuổi thanh xuân bắt đầu từ 40” ( La jeunesse commence à quarante ans ). “ Tứ thập nhi lập” , lờ cụ Khổng ! Ở tuổi bốn mươi trí óc mới chính chắn, sung mãn,làm việc mới có nhiều hiệu năng, lời nói trên xét cũng không ngoa.
40YearsTogether         Không những người ta có những quan niệm khác nhau ở mức độ tuổi để xác định tuổi già mà bàn tới tuổi già đến với chúng ta nhanh hay chậm cũng có nhiều ý kiến khác nhau. Có người coi già cùng trẻ chỉ là chuyện một sớm một chiều  :” Triêu như thanh ti, mộ bạch phát “ sáng sớm tóc còn xanh mướt như tơ mà chiều đã hóa ra màu mây trắng.

Còn bao nhiêu thành ngữ khác để mô tả cuộc đời mau chóng, đổi thay lẹ làng từ trẻ qua già : một giấc chiêm bao, bóng câu qua cửa, một  phút phù du, thậm chí có khi xem như là một sát na, đơn vị nhỏ nhất của thời gian, nhanh hơn một nháy mắt…

     Quan niệm cuộc đời đi qua mau chóng đã được khai thác thật nhiều. Con người ta chóng già, cuộc đời chóng tàn thì gian khổ, keo kiệt làm gì. Vung vít đi, hưởng thụ cuộc đời lúc còn trẻ :” Cấp thời hành lạc” :

                           Khi thiếu tráng gắng chơi cho đủ

                           Kẻo về già lụ khụ ra đi

                           Da mồi tóc bạc quản chi

                           Than thân rằng thuở đương thì chẳng chơi

                           Chơi đi chơi lấy ai ơi !

     René Ronsard một thi hào Pháp ở thế kỷ 15 cũng có ý thơ tương tự, đã khuyên cô gái xinh tươi như đóa hồng hé nụ hãy vui và yêu ngay…”ông ta” !

                            Vivez si m’en croyez, n’attendez  pas à demain,

                            Cueillez dès aujourd’hui les roses de la vie

                                         ( Quand vous serez bien vielle )

                             Tạm dịch :

                              Em ơi, nhanh ngắt đóa hồng tươi

                              Cuộc đời thấm thoát đừng chờ mai kia

                                          ( Mai kia lúc em bạc đầu )

Youth anh 1

     Trái với quan niệm vừa nói, có người lại bảo già chẳng bao giờ đến “sồng sộc”. Nó len lén, âm thầm nhẹ nhàng đến với chúng ta, chẳng biết lúc nào, lặng lẽ hơn cả bước mèo đi, hơn cơn gió thoảng. “”Già” đến trong một tiếng yêu đương “dễ ghét” :” Anh ơi, nhớ mang theo chiếc áo len, hôm nay trời trở rét” hoặc : “Anh ơi, ngồi xuống em nhổ mấy sợi tóc sâu”…Chắc nàng chẳng nhắc nhủ khi chàng còn ở tuổi 20 hay 30. Cũng có lúc người ta chỉ thấy già qua một tiếng chào vô tình của một thanh niên hay thanh nữ trẻ trung :” Chào Chú ! Chào Bác”…hay tiếng cám ơn của một cô hàng xinh xắn :” Cám ơn Chú, cám ơn Bác, cho cháu xin…!”

     Thế à ! Chúng ta đã ngang hàng với các bậc trưởng thượng của các cô các cậu ấy rồi ! Cứ tưởng chúng ta cùng trang lứa với họ !

     Chợt thấy cuộc già đến mà chưa làm được việc gì, bỗng đâm ra lo lắng. Chẳng lẽ “ tiêu lưng ba vạn sáu, để ngày tháng âm thầm vô vị trôi qua- Thay vì hưởng thụ nên nhìn đời một cách nghiêm túc : trẻ hay già nếu còn nhiệm vụ làm việc cho gia đình, cho xã hội, để lại chút gì cho mai sau :

                                          Nhập thế tục bất khả vô công nghiệp  

                                         Xuất mẫu hoài tiện thị hữu quân than                                                                                 

                                                        ( Nguyễn Công Trứ )

Hãy xem gương ông Ngu Công, 90 tuổi rồi mà vẫn còn quyết tâm dời núi Thái Hình, Vương Ốc cao vời vợi, mở đường lưu thông cho con cháu mai sau ( Theo Liệt Từ truyện)

     Quan niệm dù khác nhau nhưng rồi một ngày nào đó bắt buộc chúng ta phải ý thức là đã quá già rồi. Không thể không nhận thấy chúng ta  đang đứng trước những vấn đề khác với thời trẻ trung. Kể ra thật nhiều, khó nói cho hết : nào sức khỏe, thu nhập, tình cảm, yêu đương, xã hội v..v… Giải quyết ổn thỏa các vấn đề trên trong tuổi già không phải dễ dàng. Chẳng những cá nhân lo lắng giải quyết mà gia đình, xã hội và nhà nước cũng suy tư, làm sao cho tuổi già tốt đẹp.

       Tôi không muốn và dù có muốn cũng không có tư cách và khả năng để bàn luận đến tất cả các vấn đề. Nhiều vấn đề lại có tính cách riêng tư và tùy theo văn hóa và tập tục mà thay đổi.Lấy tỉ dụ như vấn đề yêu đương và tính dục . Ở Á Đông “Lão già” (già rồi) mà không” yên chí “ (yên phận  ), thì bảo là “già dịch”  ( Trích theo câu đối: Bần nhi lạc, phú nhi hiếu – Lão giả yên chí, thiếu giả hoài ) . Thế nhưng ở phương Tây lại khác. Báo Le Monde bên trời Tây ( số ra ngày thứ bảy 29 tháng Giêng năm 2005) xác nhận với bằng chứng đích thị “ không có giới hạn cho tính dục và tình yêu vung vít ( Pas de limite d’âge pour le plaisir et les aventures amoureuses )

     Vì không thể bàn luận  hết nên chỉ xin nói sơ lược đến một vấn đề có tính cách tổng quát mà phần lớn người già chúng ta thường đối diện ngay ở trong gia đình hay ngoài xã hội, dù ở Đông hay ở Tây : Cái hố ngăn cách hay đối lập giữa tuổi trẻ và tuổi già (generation gap ).

     Trước tiên phải thừa nhận người già nói chung thường được kính trọng trong mọi xã hội, tùy ở mức độ khác nhau.

      “Kính lão đắc thọ” là câu nói đầu lưỡi của người Việt, người Tàu và có lẽ của cả người Nhật, người Đại Hàn…Ở phương Tây không có câu “kính lão đắc thọ” nhưng người ta cũng kính lão lắm. Cứ nhìn cảnh trên xe buýt hay nơi ra vào công cộng thì rõ. Người trẻ thường nhường chỗ ngồi hoặc nhường bước cho người lớn tuổi. “”Lady first” nhưng cũng rõ ràng là “Old people first”. Mà không phải chỉ nhường suông, với những hành vi “không mất tiền mua” . Người già ở những nước kỹ nghệ tân tiến và giàu có như Mỹ ,Úc, Canada,Pháp, Đan Mạch v..v…được bảo vệ sức khỏe và hưởng những quyền lợi khác. Ở Châu Á không có mấy nước có những tổ chức bảo vệ người già như các nước phương Tây, nhưng vấn đề không phải không được đặt ra. Chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của Nho giáo  và Phật giáo, xã hội coi việc săn sóc cha mẹ già là bổn phận thiêng liêng của con cháu. So về tổ chức có phần kém sút nhưng nói về hiệu quả , xét ra không phải không có. Người già sống giữa con cháu không cảm thấy cô đơn, thiếu tình thương như các cụ ông, cụ bà trong nhà dưỡng lão ! Lại nữa ngày xưa bên nước ta có câu :” Sống lâu lên lão làng”. “ Lên lão làng” là một tập tục để bày tỏ niềm kính trọng người già và cũng là một hình thức nâng đỡ các cụ. Về thời phong kiến và thực dân, một trăm thứ nạn đổ lên đầu người dân. Nào sưu (thuế đánh vào từng người nam từ 18 tuổi  trở lên ), nào thuế, nào công ích , tư ích…Nghèo đóng không đủ thuế, nộp không đủ sưu, người dân trở thành dân lậu, không có một chút quyền và lợi nào. Thế nhưng khi đến 50 hay 55 thì được lên lão, người dân được miễn sưu lại còn được ngồi chiếu trên trong các cuộc đình đám…Lão cũng như quan nên Nguyễn Khuyến đã tự cười :                                           

                                            Năm nay tôi đã bảy mươi tư

                                            Rằng lão, rằng quan, tôi cũng ừ

               Tôn trọng người có tuổi không phải chỉ là một cử chỉ đền ơn đáp nghĩa đơn thuần vì thế hệ trước đã sinh và đào tạo nên thế hệ sau. Kính trọng người già còn vì lý do sinh tồn của bộ tộc hay của nước nhà. Lúc xã hội còn đơn giản sống vào nông, ngư nghiệp hay săn bắn ; học thuật chưa phát triển, kiến thức phần lớn chỉ dựa vào khẩu truyền thì kinh nghiệm của người đi trước thật cần thiết cho lớp người sau, trong sản xuất hay trước hiểm họa đã thứ.  Xin lấy một ví dụ trong lịch sử nước ta về đời nhà Trần, tuy thời ấy đã khá tiến bộ. Đánh hay hòa với quân Nguyên thì có lợi cho dân tộc ? Dựa trên kinh ngiệm sáng suốt của các bô lão ở hội nghị Diên Hồng, quân và dân ta đã đạt được nhiều chiến công oanh liệt, bảo vệ được độc lập của nước nhà.

              Từ tình thương tự nhiên, từ lòng hiếu thảo đối với ông bà cha mẹ, với việc đóng góp kinh ngiệm của người già để xã hội trường tồn, tập tục kính già được hình thành và phát triển.

               Ngày nay xã hội đổi thay mau chóng, giáo dục,khoa học, kỹ thuật phát triển, sách vở, truyền thông không thiếu, kinh ngiệm của người già không mấy cần thiết và nhiều lúc lạc hậu. Tuổi trẻ với khả năng nhạy bén thích nghi dễ dàng với hoàn cảnh mới. Người già trái lại suy nghĩ theo những nếp hằn tích lũy qua nhiều thời gian, không thể đổi thay trong giây phút. Cách biệt giữa trẻ và già tăng và lòng kính trọng người già  theo đó suy giảm. Già trẻ có lúc đi đến đối lập.

       Đổi thay càng mau chóng sự khác biệt càng dễ nhận thấy. Trong phút chốc xa rời đất nước để sống trong những nền văn minh mới mẻ, xa lạ, nhiều bậc phụ huynh đã ngỡ ngàng khi thấy con cháu mình thay đổi. Có người tự hỏi con cái mình phải là người Việt nữa không. Mà chẳng riêng gì ở nơi tha hương. Trước sự xâm lấn ồ ạt của văn hóa Tây

Phương, nhiều phụ huynh trong nước cũng tự đặt ra những câu hỏi tương tự ( Dựa theo ý kiến của Đại sứ Peterson ở Việt Nam ). Nhưng chúng ta, những kẻ già, cũng đừng nên quá hốt hoảng. Vấn đề khác biệt và đối lập giữa trẻ và già đã xảy ra chẳng riêng gì ở nước ta mà ở khắp nơi trên thế giới và ở vào tất cả các thời đại. Ở Pháp chẳng hạn, vào thời kỳ giữa hai cuộc thế chiến, phong trào Dada đã phủ nhận cái ý thức hệ của lớp người già, những người đi trước để lại cho họ.

      Sự cách biệt già và trẻ thể hiện trong nhiều mặt, dễ nhận thấy nhất là thời trang, trong thái độ hành xử và trong quan niệm chính trị.

      Về thời trang lớp già thường chuộng đứng đắn, giản dị và tiện nghi. Lớp trẻ chuộng mới mẻ, khác lạ. Mỗi lần ra khỏi nhà phần đông người lớn tuổi ăn mặc chỉnh tề, vét tông, cà vạt. Một số khá đông tuổi trẻ, nam thì quần dài chẳng ra dài, ngắn chẳng ngắn, lùng thùng quá gối, áo rộng thênh thang ; nữ thì quần xệ quá rốn, áo ngắn hở bụng,hở lưng. Chuộng thời trang khác nhau không phải là chuyện một sớm một chiều giữa già và trẻ. Tôi còn nhớ cách đây 50, 60 năm cách ăn mặc nói chung của người Việt chúng ta còn giản dị và thô sơ lắm : áo dài đen hay trắng, guốc mộc quai da ...Thế nhưng lớp trẻ cũng quyết tâm tạo nên những kiểu cách khác biệt, dù khác biệt chẳng có ý nghĩa gì, để đối lập với lối ăn mặc của người già. Phụ nữ thì áo lưng eo khiến cho các cụ mỉa mai là con gái “ tân thời, răng trắng, “Lemur”…Con trai cũng đi guốc như các cụ nhưng khi các cụ dùng quai da to bản thì các cậu thanh niên lại thích những quai nhỏ xíu như chiếc đũa…Áo dài thanh niên mặc cũng giống áo các cụ, nhưng thay vì năm cúc lại có sáu cúc. Dù thuyết phục, dù rầy la, các công tử, con cháu của quí cụ, quyết không thay đổi. Lại có lúc thanh niên dùng cách ăn mặc để chống đối với những người lớn tuổi. Tôi còn nhớ câu chuyện xảy ra ở một giáo xứ tại Đà Nẵng. Có một đám thanh niên mặc áo sơ-mi chim cò để đi lễ. Lễ xong cha xứ gọi lại  khuyên nhủ :-“ Các con nên mặc áo chỉnh tề lúc đi lễ ” . Tuần sau đám thanh niên đám thanh niên kia đều mặc áo dài đi lễ như lời cha xứ dặn tuy nhiên với quần “ short” . Cha xứ rầy la và đám thanh niên kia đã đáp lại : “ Cha bảo chúng con mặc áo tử tế chứ cha đâu có dặn mặc quần tử tế “.

        Ngày nay đã quá tuổi “Cổ lai hy “ nhìn chuyện qua mà buồn cười cho cái cứng đầu của tuổi trẻ và nghiêm khắc có lúc quá nặng của các cụ về “mốt” này “ mốt “ kia lúc bấy giờ. Đừng bao giờ biến chuyển thời trang thành một chuyện trầm trọng nếu không muốn đào sâu thêm hố cách biệt giữa hai thế hệ. Đến một lúc nào đó lớp người trẻ thấy cần ăn mặc chỉnh tề. Nhiều lúc một lời nói dịu ngọt, một thái độ khoan dung có thể thay đổi họ như trong câu chuyện có thật sau đây : - Một giáo sư gốc Việt bước lên bục giảng ở một trường Đại học Mỹ. Theo thói quen từ bên nhà ông nhìn quanh trong lớp để ổn định trật tự trước khi vào bài giảng. Chợt ông chú ý một sinh viên đội trùm trụp cái nón (mũ ) trên đầu. Ông bước xuống bên cạnh người sinh viên “nhỏ nhẹ “ : - Anh hãy bỏ nón ra rồi tiếp tục học hay đi ra ngoài lớp “. Người sinh viên đã bình tĩnh, cương quyết đáp lại : “ Thưa ông, tôi không bỏ nón và tiếp tục học.“ Đội nón và học chẳng có liên quan gì với nhau “. Ông giáo sư bỗng giật mình, nhớ ra mình đang ở trong một lớp học tại Mỹ . Ông nhẹ nhàng bảo anh sinh viên : -“ Thôi được, anh cứ tiếp tục ngồi học.” Anh sinh viên chợt lẳng lặng cất nón và lẳng lặng tiếp tục ngồi học như chẳng có chuyện gì xảy ra.

        Chuyện ăn mặc đã đành mà còn có bao nhiêu sở thích khác nhau giữa già và trẻ trong thời trang như âm nhạc, nghệ thuật, giải trí v..v...

         Về mặt chính trị nói chung người già thường bảo thủ. Một số người già đã quan niệm “ đổi thay càng nhiều, càng trở về như trước”, nên chủ trương xã hội phải có tôn ti, trật tự, phải biết gìn giữ cái cũ để xây dựng cái mới. Thực tế có lúc chứng minh chủ trương này không phải hoàn toàn sai. Bao nhiêu mất mát, đập phá để đi đến,nói riêng về Việt Nam, cái xã hội ngày nay, một xã hội đầy bất công nhũng lạm, chênh lệch giữa giàu nghèo còn gấp cả trăm lần ngày trước.

        Nhưng làm sao ngăn cản đập phá khi ngày trước cũng có nhũng lạm, bất công. Lớp trẻ thường trách chính lớp già đã tạo nên cái xã hội chẳng tốt lành họ đang sống hay đang chịu đựng. Dựa vào lập luận này bao nhiêu phong trào thanh niên và thanh nữ đòi thanh toán hết cái cũ, cái già nua. Cần đập phá hết cái cũ, hết cái lạc hậu để xây dựng cái mới dù cái mới còn mơ hồ và viễn vông chưa ai biết rõ. Năm 1970 chính bản thân tôi đã được đọc ở trong các thính đường hay cafeteria ở nhiều đại học Mỹ những biểu ngữ như “ Đập tan cái cũ, xây dựng cái mới trên nền tảng chủ thuyết Mao “ ( Crash the old, build the new on Maoism). Những thanh niên viết lên những biểu ngữ này mấy người đã thấy xã hội Trung Quốc, sống dưới sự cai trị của Mao, hiểu mặt trái của chủ thuyết Mao ?

         “ Nếu như tuổi trẻ hiểu biết và nếu như tuổi già  đủ năng lực “ ( Si jeunesse savait et si vieillesse pouvait) . Đó là câu than tiếc thường được nghe nói.

SiLaJeunesse
         Già và trẻ cũng khác nhau trong cung cách hành xử. Già thường từ tốn, chậm rãi, trẻ hiếu thắng, năng động. Già “ xuất thế “ thường đi tìm những thú tiêu khiển nhẹ nhàng. “ Về đi thôi, về đi thôi “ (  Qui khứ lai hề, qui khứ lai hề ). Vui thú điền viên là triết lý sống cụ Đào Tiềm  đã dạy cho lớp già Đông phương từ mấy trăm năm về trước. Mà không phải các cụ phương Đông mới ưa tĩnh mịch.  Sống yên ổn trong một nông trại riêng biệt hoặc giả  trong một biệt thự trên đỉnh núi cao  ít người  leo đến cũng là ước mơ của nhiều người có tuổi phương Tây.         

         Anatole France, một nhà văn nổi tiếng của Pháp, đã thuật lại một câu chuyện ngộ nghĩnh, nêu rõ mâu thuẫn giữa trẻ và già ngay trong một con người. Có nhà chính trị về già đứng trên balcon nhà ông để nhìn thanh niên biểu tình dưới đường phố Paris. Đám thanh niên chận xe cộ, cản trở lưu thông, hò hét , đập phá không tiếc tay. Nhà chính trị gia về già nổi gận, đập mạnh tay xuống khung cửa và thét lên : -“ Cảnh sát đâu ! Sao không kịp thời ngăn chận bọn phá rối trị an kia ?. Ông đã quên vào thời còn trẻ, ông từng tham gia nhiều cuộc biểu tình hay tổ chức những cuộc biểu tình phá phách.

        Có những vấn đề thuộc về bản năng của con người  tưởng chẳng có gì khác biệt giữa già và trẻ, khác chăng chỉ ở cường độ và tần số, như vấn đề tính dục. Nhưng theo một bản nghiên cứu của Đại học UCSD được báo  San Diego Union Tribune tóm lược và đăng tải vào ngày 5 tháng 10 năm 2005 thì già cũng như trẻ cũng có những thái độ rất khác nhau về tính dục. Có những chuyện thế hệ xưa xa lánh thì thế hệ trẻ lại ưa thích !.

         Nêu ra một vài điểm khác nhau giữa già và trẻ tôi không có ý chê trẻ sai và cho già đúng hay ngược lại. Tôi chỉ muốn nhấn mạnh giữa già và trẻ có những khác biệt, những khác biệt có khả năng đưa đến mâu thuẫn gay gắt, tai hại không ít cho gia đình, đoàn thể hay xã hội. Cần phải tìm cách san bằng những khác biệt, lấp cạn cái hố ngăn cách ấy. Giải pháp không phải là dễ. Cần nghiên cứu ,tìm tòi, cởi mở, kiên trì, thương yêu, khiêm tốn…Duy có một điều tôi muốn đề nghị ngay là tuổi già nên nhớ là mình từng có lúc trẻ và tuổi trẻ nên biết là mình sẽ già. Trong người già đang còn có những thành tố trẻ và tuổi trẻ chưa bước qua đoạn trường của tuổi già. Biết được điều tất yếu này tôi nghĩ già trẻ dễ thông cảm và gần gụi với nhau hơn.

       Tôi đã nói hơi dài dòng về cái hố ngăn cách già và trẻ. Nhưng chủ đích của bài là nói tổng quát về chuyện già chuyện trẻ hay quan niệm già trẻ, chứ không phải bàn về cái hố già trẻ. Tuy không đi quá xa để lạc lối nhầm đường nhưng cũng xin trở lại vấn đề.

       Chắc không ai sống mà cứ tâm tâm niệm niệm :- Ờ ta còn trẻ, hoặc : - Ờ, ta đã già. Người ta thường sống thản nhiên ít khi nghĩ rằng ta già hay trẻ. Thời gian cũng thản nhiên trôi qua. Nhưng một ngày nào đó, như trên đã nói, chúng ta mới nhận thức ta đã già rồi. Xin đừng hốt hoảng  khi thấy mình già để buông xuôi hay sống vội. Đã không ngăn chận được cái già thì hốt hoảng làm gì. Chán nản, buông xuôi cáng chóng già, sống vội chẳng được thêm bao nhiêu. Hãy tự tại an nhiên, bình thường làm điều đáng làm trong tầm vóc sức lực của mình. Quảng đại, cởi mở, khiêm tốn, chia sẻ, theo suy nghĩ nông cạn và riêng tư của tôi, là cách sống “Xuân”, không lệ thuộc vào Mùa Xuân đến hay Mùa Xuân qua.

Nguyễn Đăng Ngọc

Star InactiveStar InactiveStar InactiveStar InactiveStar Inactive

 

Hoi tuongB
Hồi tưởng về một ngôi trường mà từ đó mình ra đi, chắc ai cũng có những kỷ niệm vui buồn của một thời thơ ấu, và tất cả bao giờ cũng rất đẹp . Nhiều người đã ca tụng ngôi trường cũ với lớp học, sân chơi, cây cối, bảng đen, bàn ghế...đã in sâu vào ký ức. Tôi không chối điều đó ! Nhưng theo tôi, điều đáng nhớ hơn vẫn là những con người . Những con người đã gắn bó với nhau trong một thời gian bằng những kỷ niệm, đã ghi ấn tượng cho nhau càng khó phai mờ hơn . Tôi muốn nói đến Tình Thầy trò, Nghĩa bầu bạn .

Trường Phan Châu Trinh Đà Nẵng vẫn còn đó. Bốn mươi lăm năm qua, trường vẫn là trường, nhiều thế hệ đã đến rồi ra đi một cách lặng lẽ, trong đó có cả thầy, cô giáo , cũng như học sinh. Có thể thế hệ này không hề quen biết với thế hệ khác, dù cùng dạy, cùng học một trường. Có những anh chị em , một thời làm học sinh và một thời làm thầy, cô giáo, chẳng biết những kỷ niệm của họ có bao giờ lẫn lộn ? Vì thầy là thầy mà trò là trò. Có lần tôi nghe thầy Ngô Văn Chương  ( nguyên Hiệu trưởng trường PCT ) xưng con với thầy Bùi Tấn, tôi cảm phục điều đó vô cùng.

Nhân đọc bài thơ  “ Bỏ trường mà đi “ , tôi bỗng nhớ trước hết thầy Trần Đại Tăng, người đã gắn bó với trường Phan Châu Trinh 40 , qua nhiều thế hệ ( 1958-1997 ).

“... Ta đến khi tóc xanh

     Ta về khi tóc bạc...”

Có thể thầy đã chiếm kỷ lục về thời gian giảng dạy tại đây, và tôi nghĩ rằng trong tương lai của trường e khó có ai sánh kịp . Thầy đã  :

Bước đi trên hành lang

Bước đi trong lớp học

Cọng lại bằng con đường

Nối vòng quanh trái đất

Thầy Trần Đại Tăng lớn hơn tôi bốn tuổi, thầy chỉ dạy tôi có vài ba học kỳ về môn Toán, nhưng tôi luôn luôn nhớ thầy chẳng những vì thầy là giáo sư Toán của tôi mà còn là một nhà thơ với tâm hồn nhạy cảm rung động trung thực. Ba mươi sáu năm trước đây, thầy tặng tôi bài thơ “ Xác định “ mà thầy đã ghi vội trên hành lang lớp học  ( hiện tôi còn cất giữ trân trọng ) . Và hôm nay tôi vô cùng cảm động đọc bốn câu thơ thầy vừa tặng :

Sao chẳng về đây thăm cửa lớp ?

Nhìn ta tóc trắng cố nhân ơi !

Tặng cho ta đóa hoa hồng nhỏ

Và tiễn ta đi xuống cuộc đời

Thưa thầy, thầy đã cho chúng em  một vườn hồng đầy hương sắc trên khắp các phương trời. Thay cho những người bạn ( của nhiều thế hệ ) em kính cẩn mời thầy cứ vào “ Vườn Hồng Thụ Nhân “ mà thầy đã dày công trồng và vun xới .

Riêng tôi, tuy kỷ niệm về thầy không nhiều, nhưng thật là sâu sắc. Thầy là giáo sư Toán , nhưng ấn tượng ghi lại trong tôi nhiều hơn chính là thơ, là văn, là triết lý của cuộc đời. Tâm hồn thầy bao giờ cũng như trăng, như suối . Thầy dạy Toán rất dễ hiểu, dễ nhớ . Bao nhiêu bạn tôi cũng đã nói như thế , dẫu cho ngày nay họ đã là giáo sư của các trường Đại học nổi tiếng trên thế giới . Có những lúc thầy đang giảng giải một bài tóan khó, học sinh cả lớp yên lặng , tâm trí mỗi người đều căng thẳng . Bỗng chốc , thầy bỏ phấn, dừng tay , mơ màng nhìn ra ngoài đường phố...Thầy đã cho chúng tôi một phút thư giản tuyệt vời, để rồi sau đó lại tiếp tục khai thông những rắc rối . Những công thức khó nhớ, với thầy Tăng có thể trở thành những câu thơ khó quên.

HoiDongGiaoSuNam1954H

Tôi nhớ rõ hình ảnh thầy hiệu trưởng Nguyễn Đăng Ngọc, vừa là giáo sư Pháp văn, Anh văn .Bao giờ tôi cũng thấy thầy nghiêm nghị, ít nói. Thầy có trí nhớ phi thường. Sau gần 15 năm rời Phan Châu Trinh, bỗng nhiên một hôm tôi gặp thầy trên đường phố, tôi kính cẩn chào thầy : “Thầy còn nhớ con không ?”  Thầy Ngọc nói ngay cả họ và tên tôi không cần suy nghĩ. Rồi thầy tiếp tục hàn huyên về những kỷ niệm và hỏi thăm về các bạn đồng lớp với tôi. Thầy Ngọc có rất nhiều học trò . Bao nhiêu thế hệ đã học với thầy , thầy luôn luôn có một tấm lòng rộng mở Thành nhân chi mỹ .Những nét nghiêm nghị của thầy, giờ này hồi tưởng lại, tôi thấy kính mến vô cùng . Ước gì có một lần cuối đời được gặp thầy để hầu thăm và bày tỏ lòng tri ân.

Đây, hình ảnh thầy Trần Tấn bao giờ cũng vui tính. Tôi nhớ thầy giảng về vở kịch Le Cid  của Pierre Corneille bằng tiếng Pháp, giọng nói thầy trầm trầm thật dễ mến . Anh em chúng tôi lúc đó thường gọi thầy “ mon papa “ để vòi tiền thầy mua kẹo, rồi mang vào lớp để chia cho nhau. Sau năm 1985 , tôi tìm đến quê thầy để hầu thăm. Khi cô Tấn cho biết thầy đã qua đời ! tôi ngậm ngùi xúc động nhớ hình ảnh thầy với đôi kính cận dày cộm , không cầm nước mắt được và lòng tự trách “ Sao ta qúa vô tình với thầy như thế ? “

Gần đây nghe tin thầy Bùi Tấn qua đời tại Sài Gòn ( nay là TP HCM ), lại một lần nữa, tôi bồi hồi thương nhớ vị giáo sư khả kính. Thầy đã từng dạy Quốc Học ( Huế  ), Phan Châu Trinh ( Đà Nẵng ), thầy là người đã đặt tên cho trường Trung học công lập Trần Cao Vân (Tam Kỳ ) vào năm 1955, lúc ấy thầy là Hiệu trưởng  và tôi mới bước vào ngưỡng cửa Trung học. Với thầy tôi có nhiều kỷ niệm. Từ trại Hè Tịnh Khê ( Quảng Ngãi ), rồi trại Hè  Thuận An ( Huế ) cho đến những quyển sách Toán bằng tiếng Việt đầu đời mang tên tác giả liên danh “ Đinh Qui, Bùi Tấn, Lê Nguyên Diệm “ , thầy đã từng dạy chúng tôi. “ Các anh vẽ vòng tròn cho ra vòng tròn, vẽ đường thẳng cho ra đường thẳng . Toán học không bao giờ cho phép các anh méo mó, xiên xẹo ! “ .Đôi mắt thầy luôn sáng quắc . Thầy nói , ít khi dư một lời. Thầy viết , ít khi thiếu một chữ. Vóc dáng thầy gầy gầy , nhưng đầy nghị lực và mô phạm. Tôi đã học với thầy 6 năm ( hai trường ), và hiểu rằng thầy là một nhà giáo đáng kính, một giáo sư Toán và còn là một nhà Nho uyên bác. Thầy đã dạy chúng tôi khi còn rất nhỏ rằng  : “Nhứt niên chi kế khởi ư Xuân, nhứt nhật chi kế khởi ư Dần “ ( Kế hoạch một năm phải bắt đầu mùa Xuân, kế hoạch một ngày phải bắt đầu vào giờ Dần ), “ Quân tử hoà nhi bất đồng, Tiểu nhân đồng nhi bất hoà “  ( Người quân tử hoà mà không đồng, kẻ tiểu nhân đồng mà không hoà ) .

Cám ơn thầy đã dạy con những điều đó ngoài phạm vi Toán học. Ấn tượng về thầy là sự nối kết giữa Cựu học và Tân học, giữa Tứ thư Ngũ kinh với Định đề Euclide, vòng tròn quỹ tích Euler.

Vào những này lễ lớn, thầy thường mặc một bộ veston bằng tissu tơ tằm, màu lụa Duy Xuyên. Đôi khi thầy cũng mặc quốc phục, trông trang trọng và cổ kính làm sao !

Têi muốn viết tiếp về những người thầy cũ PCT mà tôi hằng kính mến. Tôi không quên thầy Lâm Sĩ Hồng, dạy tôi về Tản Đà, Nguyễn Công Trứ, Nguyễn Khuyến.

Thầy Đặng Minh Trai dạy Văn học sử Anh, thầy giảng giải về thi hào William Shakespeare thật hay và có lẽ bài thơ To Daffodil  bằng Anh ngữ  mà lần đầu tiên tôi học được với thầy về cái hay của thơ Anh. Mới đây, thầy Trần Đại Tăng cho biết thầy Đặng Minh Trai đã nằm xuống, để lại cho anh em chúng tôi nỗi nhớ về một Nhà giáo đẹp trai, cao ráo và thông minh.

Cho đến bây giờ ai hỏi tôi : “ Cô giáo nào mà anh kính mến nhất ? “ . Tôi không lưỡng lự mà trả lời rằng : Cô Phạm thị Bội Hoàng. Cô nói giọng Bắc, cô nói tiếng Pháp như  “đầm “. Cô dạy Pháp văn và Kinh tế học ( Công dân Giáo dục ). Cô phân tích hay vô cùng về lý thuyết kinh tế của Thomas Robert Malthus, của Karl Marx. Cô Bội Hoàn luôn dí dỏm , rất dễ mến. Lần nọ, một người bạn cùng lớp tôi, được cô gọi lên bảng trả bài. Bạn mặc quần Jean ( điều cấm kỵ của trường lúc bấy giờ      ) , anh ta lại mang một đôi giày đế da kiểu Chicago, trông thật đẹp trai và” sang trọng”. Anh bước lốp đốp lên bảng . Cô Bội Hoàng hỏi một câu thật khó. Bạn tôi “ đứng chào cờ “ . Cô bảo : “Tôi cho anh 2 con zéro, về chỗ “. Bạn tôi rón rén bước xuống. Cô gọi lại : “Anh lên đây “, bạn tôi lại đi lên, cô tiếp : “Lần sau anh cố gắng học thật giỏi nhé ! để rồi anh sẽ đi lên như đi xuống, và đi xuống như đi lên “. Cả lớp cười ồ ! Một kỷ niệm khó quên  !

Mấy năm trước đây, tôi  gặp lại người bạn cũ đó, anh dẫn theo đứa con gái đầu đã tốt nghiệp Đại học tại Pháp. Cháu nói tiếng Pháp giống hệt cô Bội Hoàng ngày xưa. Sau khi bố con chào tôi, tôi hỏi ngay : “ Anh còn nhớ cô Bội Hoàng không ? “. Anh vui vẻ trả lời ; “ Chẳng những nhớ mà tôi còn rất kính mến cô “

Lần khác, cũng một người bạn cùng lớp được cô gọi lên bảng. Anh thong thả trả lời câu hỏi của cô một cách trôi chảy. Cô bảo : “Tôi cho anh 20 điểm “. Rôi cô tiếp : “Nghe nói anh nhảy Twist giỏi lắm, có không ? “. Bạn tôi cười, cô bảo : “Nhảy xem nào ! “ Bạn tôi liền uốn mình đếm bước ngay trước bảng đen . Cô lắc đầu, cười vui vẻ : “Thôi các anh muốn gì thì cứ gì, nhưng hãy nhớ là phải có gì rồi mới gì được đấy nhé ! “ Cả lớp lại cười ồ  lên vì những câu nói dí dỏm , nhưng đáng suy nghĩ lâu dài.

Lại một chuyện khó quên nữa. Chồng cô Bội Hoàng là một bác sĩ quân y nổi danh thời bấy giờ. Em chồng cô là bạn tôi ở cùng nhà với cô . Một sáng thứ hai nọ, cô gọi bạn tôi lên bảng kiểm tra. Bạn tôi vừa ngẩn ngơ, vừa sợ sệt ! Cô bảo : “Tôi phải cho chú 2 con zéro vì tối qua chú đi ciné với chúng tôi, có thì giờ đâu mà làm bài, học bài ! Mời đi ciné là việc của chúng tôi, còn muốn từ chối để lo học hành là việc của chú ! “ . Cả lớp sửng sốt nhìn nhau. Bạn tôi về chỗ, vừa đi vừa nói lẩm bẩm : “ Từ nay sẽ không bao giờ dám đi ciné với ông bà nữa “ .

Cô Bội Hoàng rất dễ tính và yêu mến những nam sinh , miễn là phải học thật giỏi !

Với cô Bội Hoàng, ấn tượng trong tôi là sự phóng khoáng, tự do, nhưng phải cố gắng vươn lên và biết tự chế.

Sau cô Bội Hoàng, tôi không bao giờ quên được cô An Hà Châu, cô Trần thị Kim Đính, cô Hoàng thị Mộng Liên...Những cô giáo mô phạm, trầm tĩnh mà tôi hằng kính mến.

Tôi đã viết về thầy, cô giáo PCT..., nhưng kỷ niệm còn nhiều, phải dành cho anh chị em cùng lớp, cùng trường nữa. Tôi muốn viết thật nhiều, nhưng ngại rằng  : Đây chỉ là chuyện riêng tư. Năm tôi học Đệ tam, lớp tôi có 55 anh chị em, năm tôi học Đệ nhị có 61 anh chị em. Chẳng lẽ bây giờ tôi phải viết một hồi ký ức về các anh chị ấy ? Trường PCT lúc bấy giờ hãy còn nhỏ, chỉ có 4 lớp Đệ tam, năm sau có 4 Đệ nhị, chưa có Đệ nhất. Anh chị em liên lớp đôi khi cũng chơi thân nhau lắm . Tự nhiên có người thân quen nhiều, mà cũng có người thân quen ít. Dầu vậy, những “ học sinh cá biệt “, có thể vì học giỏi, có thể vì sở trường một bộ môn , nhưng cũng có thể là những anh hoang nghịch nhất, hoặc chỉ có cái tên hay hay, ai cũng biết, ai cũng nhớ. Tôi đã rời trường 36 năm rồi . Thời gian gợi nhớ lờ mờ, nhưng tôi luôn mến thương những người bạn cũ với buồn vui lẫn lộn.

Tôi nhớ Phan Xuân Dũng, Lê văn Phong, Trương Như Thăng...khi chúng tôi tranh nhau làm chemise các môn thi lục cá nguyệt. Tôi nhớ Đặng Nguyệt Thi, Nguyễn Thị Liên, Khưu thị Diệu Hồng, Nguyễn thị Phượng, Võ thị Hồng Nhụy...mỗi người một vẻ , và tất cả đều ...rất dễ khóc !

Tôi nhớ những lần tranh giải liên lớp, thường gặp Phan Chánh Dinh, Nguyễn Tăng Miên, Nguyễn Hữu Sử, Lê Viêm Côn, Nguyễn Phụng ...Một thời Phan Châu Trinh, ôi thật hào hùng và thơ mộng ... Có nhiều điều, nhiều người đáng nhớ, làm sao kể hết ! Có những bạn từ đó đến nay tôi chưa bao giờ gặp lại, dầu chỉ một lần. Cũng có nhiều người bạn đã hóa ra người thiên cổ trong chiến tranh cũng như trong thời gian 22 năm qua. Công danh, sự nghiệp, mỗi người một ngả, một phương trời . Nhưng làm sao quên được khung cảnh sân trường của những ngày thứ hai : nam sinh đồng phục trắng, nữ sinh áo dài thiên thanh. Năm ngày khác trong tuần  : nam sinh quần kaki xanh,áo trắng, nữ sinh đồng phục trắng . Chúng tôi xếp hàng nề nếp vào lớp khi nghe tiếng kiểng, âm thanh đến quen thuộc. Tôi không biết Bác Thôi, người cai trường thời ấy, bây giờ ở đâu ? Bác còn hay đã mất ?

Ôi tuổi học trò đơn sơ, trong sáng, “Thiên đường một thuở “. Có những mối tình học trò thầm kín đầy thơ mộng ...

Yêu em , gấp sách ngồi mơ

Xé trang vở học viết thơ ân tình

Lại cũng có những mối tình thầy trò “tôi khóc em cười “ ( thơ Trần Hoan Trinh ) đã được chôn kín dưới mái trường PCT, để đi vào muôn thuở...

Tình thầy, tình bạn, tình sách vở, tìng trường ...Ơn sâu nghĩa nặng...mới đó mà đã 45 năm rồi ! Tóc thầy đã bạc phơ mà tóc trò cũng đã hai màu tiêu muối ! Tôi bàng hoàng suy tư  : Thời gian và ý nghĩa đời người là gì nhỉ ?

Mục sư Lê Cao Qúi

(Cựu học sinh Phan Châu Trinh  1956-1961)
(ĐS 45 năm Trung học PCT- ĐN 1997) 

Star InactiveStar InactiveStar InactiveStar InactiveStar Inactive


Mỗi lần gặp nhau, anh Tuấn Hội trưởng không quên nhắc tôi : “ Anh Thức nhớ viết bài cho tờ Đặc san Kỷ Niệm 50 thành lập Trường Phan Châu Trinh nghe anh “. Tôi giật mình, nhanh thật, một thoáng qua đã nửa thế kỷ ngôi trường mang tên Người Chiến Sĩ Quốc Gia nơi thành phố Đà Nẵng , một hải cảng lớn nhất miền Trung .

Giờ đây ngồi ghi lại những kỷ niệm về mái trường xưa theo dòng suy nghĩ của một khối óc đã ngoài 60 , làm sao tránh khỏi nhầm lẫn thiếu sót . Hơn nữa, từ thuở học trò , tôi không khá về môn Việt Văn, lâu nay lại chẳng viết lách gì . Mong một sự thông cảm nếu bài viết có vấn đề .

Nhắc đến trường xưa, nhớ lại thuở ban đầu vào cuối thập niên 40 , lứa tuổi chúng tôi đang ở bậc tiểu học , chiến  tranh Việt Pháp ngày càng ác liệt. Trường Tiểu học ở ngoại ven và ngay ở trong thành phố Đà Nẵng thường xuyên bị đốt phá, thầy giáo bị bách hại bởi những người Việt Minh . Có lẽ họ không cho thành phần Quốc gia có cơ hội phát triển nền giáo dục , chấn hưng dân trí hổ trợ cho công cuộc đấu tranh giành độc lập về cho Tổ Quốc . Tuổi trẻ chúng tôi luôn luôn trực diện với cảnh những chiếc bàn học cháy nám trên đống tro tàn của ngôi trường vừa bị thiêu rụi trong đêm , hết tháng này qua năm nọ .

Mãi đến năm 1950 , một dịp may tôi được vào học trường tiểu học Hoà Vang, ngôi trường tiểu học duy nhất của cả một Huyện , nằm cạnh chợ Mới . Thuở ấy học hết bậc tiểu học ( lớp 5 ngày nay ) , học sinh phải trải qua một kỳ thi để lấy bằng Tiểu học. Cửa ải này một lần nữa làm chậm lại hay có khi chấm dứt con đường học vấn của nhiều người, vì thi mãi không đỗ .

Tôi đậu bằng Tiểu học mùa hè năm 1954 . Đây cũng là lúc ngôi trường trung học Phan Châu Trinh vừa mới xây dựng xong . Trường nằm ở trung tâm thành phố Đà Nẵng, trên một khu đất không rộng lắm . Chính diện xây ra đường Lê Lợi. Ban đầu chỉ mới một dãy nhà dọc, chính giữa là phòng Hiệu Trưởng và văn phòng, hai bên tả hữu mỗi bên 4 phòng học.

Thực tế Trường Phan Châu Trinh được thành lập từ năm 1952 ,nhưng cơ sở trường chưa có. Các lớp Đệ thất của những niên học 1952 – 1953 rất ít, chỉ một hay hai lớp mà thôi và phải mượn lớp học ở trường Tiểu học thành phố , trên đường Yên Bái. Một số các anh chị cựu học sinh của niên học đầu tiên , hiện đang định cư tại vùng Nam California tôi được gặp trong các kỳ Họp mặt Liên trường như các anh Đông, anh Hội, anh Minh v..v...

Cơ sở của Trường Phan Châu Trinh vừa mới xây cất xong cho nên số lớp Đệ thất của niên học 1954  được tăng lên 4 lớp, nhưng so với nhu cầu học sinh muốn được theo học quá hạn chế . Kỳ thi tuyển vào Đệ thất chỉ chọn 200 cho 4 lớp trong số gần một ngàn  (1000 ) thí sinh tham dự. Ngày đi nghe kết quả thi tuyển , tôi và có lẽ nhiều người bạn khác cũng có cùng một tâm trạng .
PCT KhiMoiThanhLap 1954R

Riêng tôi  từ những nhịp tim bấn loạn , đến trạng thái lã người , hoa mắt ù tai, vì danh sách trúng tuyển đã đọc đến con số 180 hơn mà chưa nghe thấy tên mình . Tôi tìm một thân cây dựa người để đứng vững . Bất chợt người tôi tỉnh hẳn lại vì âm thanh CHẾ đã đến tai tôi và tiếp theo là tên tôi CHẾ VĂN THỨC , âm thanh như một cứu tinh. Vì nếu không đỗ kỳ thi đó, tôi nghĩ con đường học vấn của tôi xem như đi vào ngõ cụt .

Trường trung học công lập tại Đà Nẵng mang tên Người Chiến Sĩ Quốc Gia, Người Chiến Sĩ Cách Mạng tiền bối có hoài bảo cứu nước , kiến tạo xã hội bằng con đường xây dựng Dân Chủ , Dân Sinh và Dân Quyền . Người đã quan niệm trong một đất nước mà dân tộc xây dựng được ba lãnh vực trên một cách tốt đẹp, mới mong tổ quốc phú cường. Con đường của Người muốn tiến ngược hẳn với hướng đi của một nhân vật cùng thời đang tiếp nhận chủ thuyết Cọng sản. Chủ thuyết này áp dụng một chế độ Độc tài, Đảng trị, vô nhân ( nhân quyền, nhân sinh , nhân trí ) . Sự đối kháng giữa hai luồng tư tưởng nêu trên đã làm cản trở rất lớn con đường giải phóng Đất nước của nhiều nhà Cách Mạng Dân tộc .

Do đó khi viết về ngôi trường Phan Châu Trinh không thể không đề cập đến một biến cố trọng đại của lịch sử xảy ra cùng lúc với ngôi trường vừa mới được xây dựng xong . Chiến tranh Việt Pháp kết thúc bằng  Hiệp định Genève muà Hè 1954  ngày 20 – 7, chấm dứt chế độ của người Pháp trên toàn lãnh thổ Việt Nam sau 100 năm đô hộ .Nhưng đồng thời Đất nước lại rơi vào cảnh chi cắt phân đôi . Sông Bến Hải trở thành lằn ranh Quốc, Cộng . Hoà bình về trên quê hương, nhưng dân tộc phải một phen điêu đứng chia ly phân tán vì hiểm hoạ Cọng sản . Trên hành trình tìm đường cứu nước Cụ Phan Châu Trinh đã am hiểu và tiên đóan đước mối họa này. Nên khi một nửa giang sơn Tổ quốc rơi vào điịa ngục trần gian, một cuộc di cư vĩ đại đầu tiên ( tôi nói đầu tiên vì đã xảy ra lần thứ nhì ) của hơn một triệu đồng bào miền Bắc vượt tuyến xuôi Nam tìm đường sống . Một biến cố đau thương của lịch sử chưa hề xảy ra cho dù Dân tộc đã trải qua một ngàn năm đô hộ của giặc Tàu phương Bắc, và một trăm nămcai trị bởi giặc Pháp phương Tây . Ngôi trường mang tên Người Chiến Sĩ Quốc Gia vừa mới xây xong chưa khai giảng khóa học đã mở cửa đón nhận hàng ngàn trong số hàng trăm ngàn đồng bào ruột thịt miền Bắc di cư đến được cảng Đà Nẵng vào tạm trú . Khối đồng bào miền Bắc di cư lánh nạn Cọng sản được ngôi nhà mới mang tên Người đón tiếp là những Chứng nhân Lịch sử , chứng minh một cách hùng hồn về sự sai lầm nguy hiểm của chủ thuyết Cọng sản mà nhà Chiến Sĩ Cách Mạng Phan Châu Trinh đã chỉ ra và Người khước từ không tiếp nhận. Niên học Đệ thất 1954  của chúng tôi vì thế đã khai giảng trễ và mất đi vài tháng học .

Vị Hiệu trưởng đầu tiên là Thầy Quách Gi . Thầy đã cao tuổi so với quí Thầy Cô lúc bấy giờ. Tôi không nhớ được hết , nhưng năm đầu số giáo chức rất giới hạn, chỉ mới có các Thầy Trần Tấn, Thầy Bùi Tấn, Thầy Phạm văn Ấm, Thầy Trần Ngọc Quế, Thầy Nguyễn văn Lượng, Thầy Toại, Cô Đặng thị Liệu, Cô Trần thị Kim Đính , Cô Nguyện. Cô Hà . Hình như chỉ một năm sau, tức năm chúng tôi lên lớp Đệ lục, vị Hiệu Trưởng kế tiếp thay thế Thầy Quách Gi là Thầy Nguyễn Đăng Ngọc .

Thầy Nguyễn Đăng Ngọc làm Hiệu trưởng cho đến năm chúng tôi đậu bằng Tú tài I , phải rời trường Phan Châu Trinh ra học lớp Đệ nhất tại trường Quốc học Huế  1960 -1961, Thầy Hiệu trưởng Nguyễn Đăng Ngọc vẫn còn tại trường . Cũng vào những năm Thầy Ngọc làm Hiệu trưởng, số giáo sư được bổ nhiệm về trường càng ngày càng đông hơn : Thầy Thiếc, Thầy Lý Châu, Thầy Đôn, Thầy Tạ, Thầy Tường, Thầy Hồng, Cô Diệm, Cô Châu ,Cô hiền, Cô Hoàng (phu nhân bác sĩ Tôn Thất Cần ), Thầy Hào, Thầy Hối ,Thầy Tòng, Thầy Trần đại Tăng, Thầy Đáo. Thầy Kế giám thị từ ban đầu. Tôi không nhớ đủ.

Bằng một sự kính yêu, mến phục in sâu trong tâm khảm chúng tôi hình ảnh các bậc Thầy Cô từ tuổi tác cao nhất đến nhữnh vị còn trẻ . Mỗi người một vẻ, uy nghiêm đạo mạo phong thái của những nhà mô phạm . Một số các Thầy Cô trẻ tuổi có lối trang phục hấp dẫn , phong cách hào hoa, mà lớp tuổi học trò ngấp nghé ngưỡng cửa Đại học của chúng tôi rất ngưỡng mộ . Nỗi ưu tư lo lắng của từng vị Thầy Cô về thành quả giảng dạy của mỗi vị đối với đám học trò thật không nhỏ, vì lúc bấy giờ muốn đạt xong bậc Trung học, người học sinh phải chịu một chế độ thi cử  thật gắt gao, phải vượt qua ba cửa ải bằng cấp  : Trung học Đệ nhất cấp, bằng Tú Tài I và bằng Tú tài II khá cam go để tốt nghiệp .

Thầy Bùi Tấn , một trong những vị Thầy đầu tiên xuất bản sách giáo khoa toán Đệ Nhất Cấp , cùng với hai Thầy Đinh Quy và Lê Nguyên Diệm . Lớp chúng tôi hân hạnh được Thầy dạy như là một vị cứu tinh của chúng tôi về môn này . Lối giải đáp và trình bày một bài tóan của tất cả học sinh do Thầy dạy đều phải theo một khuôn khổ giống nhau  nhất định, nhìn vào một bài làm biết ngay “ học trò của Thầy “ .

 Khi lên năm Đệ tứ, lớp Tứ 1 ( có 4 lớp Đệ tứ ) của chúng tôi được Thầy Hiệu trưởng Nguyễn Đăng Ngọc giảng dạy môn Việt Văn . Đây là một trong những môn học mà ở kỳ thi tốt nghiệp học sinh thường dễ bị chống gậy . Giờ học của Thầy thật nghiêm túc , nhưng với khoa giảng sinh động, hấp dẫn , lớp học luôn luôn có những dịp cười thích thú . Một lần nọ Thầy giảng về Cung Oán Ngâm Khúc của Nguyễn Gia Thiều nói lên nỗi sầu ai oán của người đẹp bị lãng quên trong cung đình . Người cung phi bị nhà vua chẳng đoái hoài đến lại có một sắc đẹp đến độ :

“ Chìm đáy nước cá lờ đờ lặn

Lửng lưng trời nhạn ngẩn ngơ sa

Hương trời đắm nguyệt say hoa

Tây Thi mất vía, Hằng Nga giật mình .”

Thầy Ngọc say sưa mô tả nét đẹp người cung phi của Nguyễn Gia Thiều qua nhiều dẫn dụ, rồi Thầy đọc hai câu thơ kết :

“ Bóng gương thấp thóang sau mành

Cỏ cây cũng muốn nổi tình mây mưa “

Thầy chậm rãi nói : “ Các em thấy không, nàng cung phi đẹp, đẹp đến nỗi “ cỏ cây còn muốn nỗi tình mây mưa, huống hồ ...” Cả lớp cười rần, nhất là học trò nam, còn các chị cười bẽn lẽn .

Kỳ thi tốt nghiệp Trung học Đệ nhất cấp năm 1958  số học sinh của trường Phan Châu Trinh thi đỗ với mức tỷ lệ khá cao. Riêng lớp chúng tôi chỉ có năm bảy bạn không đạt kết quả . Người học sinh học giỏi, xuất sắc nhất của niên học từ 1954 là anh Nguyễn Hữu Hùng, đẹp trai tính tình nhu mì dễ thương. Từ Đệ thất tới Đệ nhị , năm nào Hùng cũng nhận phần thưởng danh dự của Tổn Thống Việt Nam Cộng Hoà trong dịp phát thưởng cuối niên học cho học sinh toàn Thành phố Đà Nẵng. Sau khi đậu Tú tài II, anh được nhiều học bỗng quốc tế như Canada, Mỹ, Anh, Đức và Úc . Anh đã chọn du học sang Úc , nhưng có lẽ vì não bộ của anh phát triển quá mức bình thường , nên sau khi tốt nghiệp ở nước ngoài trở về không bao lâu, anh không còn làm việc được nữa , vì mất thăng bằng về tâm trí , hiện anh còn ở Đà Nẵng .

Thời gian từ năm 1955 đến năm 1960 là khoảng đời đẹp nhất của tuổi học trò chúng tôi , vì miền Nam thật sự sống trong cảnh thanh bình tự do . Đời sống của người dân từ thành thị đến thôn quê vô cùng sung túc. Người công chức nói chung, hàng giáo chức nói riêng , có được mức sốngbảo đảm, từ đó người học sinh của chúng tôi cũng được hưởng chất lượng tốt trong sự giảng dạy của các bậc Thầy Cô. Một xã hội trong đó chính quyền có quan tâm đến việc kiến tạo dân sinhvà dân trí, thì mới đạt được nếp sống tốt lành .

Ngược lại sau khi đất nước gọi là “ thống nhất “ năm 1975 cho đến nhiều năm sau, từ nhà tù trở về với gia đình , tôi có dịp nhìn cảnh trường học rách nát , đời sống của người giáo chức bi đát, tương lai học sinh vô định hướng, mà lòng quặn thắt . Cảnh đau lòng đó dưới chế độ áp bức người ta chỉ biết truyền khẩu qua mấy câu đối Tết như sau :

“ Chiều ba mươi, thầy gíao tháo giày đem bán, đón Tế đến

Sáng mồng một, giáo chức dứt cháo cầm hơi, rước Xuân sang   ! “

để nói lên sự bất mãn của người dân trong một xã hội mà con người không được quyền làm người . Còn nữa, đời sống khó khăn của hàng giáo chức được thể hiện qua những câu thơ trào phúng truyền tụng khắp nơi như mấy câu sau đây :

“ Suốt cả ngày thầy cô khan cổ

Đêm tối về mỏi gối đạp xe thồ “

Cảnh sống ấy không thể nào giúp các bậc thầy cô làm tròn chức năng cao đẹp của một nhà giáo . Từ đó Dân tộc rơi vào thảm họa lạc hậu nhất nhì trên thế giới , là một niềm đau nhức nhối cho những ai có chút suy tư về tiền đồ Dân tộc .

Tôi dùng từ “ TRƯỜNG XƯA “ để viết bài kỷ niệm 50 năm ngôi trường tôi theo hết bậc trung học , có nhiều kỷ niệm in sâu trong tâm khảm của tôi , nhưng tôi không thể ghi lại được tất cả . Trường Xưa là thế đó, đẹp và đẹp lắm với đầy đủ ý thức của những lớp người , hàng con cháu ( trừ đám lộn sòng ) của nhà Chiến Sĩ Quốc Gia mà ngôi trường đã mang tên Người, trường Phan Châu Trinh . Lớp con cháu một thời đã làm cho Người thực sự sống lại , để thực thi hoài bảo cứu nước và xây dựng đất nước trên con đường kiến tạo Dân chủ, Dân sinh và Dân quyền .

Còn “ Trường nay “ thì sao ? Ngôi trường mang tên Phan Châu Trinh còn đó, nhưng chỉ là cái danh gượng gạo , bất đắc dĩ đối với “ họ “. Họ khống chế, dẹp bỏ như họ đã muốn hạ bệ pho tượng của Người đặt ở sân trường, sau ngày gọi là “ Giải phóng “, nhưng cũng không thực hành được vì sợ lòng dân căm phẩn . Thế nhưng ngôi nhà Thờ Phan Châu Trinh nằm gần Ngã Năm, cạnh rạp chiếu bóng Lido ngày xưa , đã bị họ nhẫn tâm triệt hạ bằng cách xây một dãy cửa tiệm quốc danh chiếm hết mặt tiền ngôi nhà Thờ , để làm nơi buôn bán . Mỗi lần có dịp đi ngang qua tôi thấy mủi lòng.

Một số quí Thầy Cô năm xưa của chúng tôi còn nơi đó, trước ngày tôi rời quê cha đất tổ ( 1990 ) để sang định cư tại Hoa Kỳ, theo diện người cải tạo trở về . Tôi may mắn cùng một số đông bạn niên học 1954 cũng như gia đình , đã có một buổi Họp mặt để chia tay . Chúng tôi mời được quí Thầy Trần Tấn , Thầy Lý Châu, Thầy Nguyễn Văn Đáo và Thầy Trần đại Tăng  đến chủ toạ. Tình cảm thầy trò yêu thương kính mến thật đậm đà . Xúc  động nghẹn ngào khi thầy Trần Tấn  đại diện ngỏ lời huấn dụ với tất cả học trò cũ của các thầy, mọi người cảm xúc vô cùng ( mong ban ấn lóat đăng hình qúi thầy tôi đã gởi ) . Cơ hội đó tôi đọc được nỗi tâm tư đau xót của quí thầy cô còn phải ở lại để thi hành nốt cái thiên chức cao qúi, như là cái nghiệp không thể buông tay .

Nơi nửa vòng trái đất xa xôi , tôi chân thành cầu chúc quí Thầy Cô kính yêu hiện còn và quí quyến có được sức khỏe tốt và moị sự an lành. Mong sớm được có ngày đẹp trời , bình thản không vướng mắt ...tôi trở về được  gặp thăm quí Thầy Cô . Tôi cũng chân thành gửi đến quí Thầy Cô và quí quyến đang định cư tại Hoa Kỳ cũng như trên khắp thế giới có được một cuộc sống bình an, nhiều và nhiều sức khỏe . Và mong luôn được gặp qúi Thầy Cô cũng như bạn bè cựu học sinh trường Phan Châu Trinh trong những ngày Hội ngộ nơi xứ người .

Chế Văn Thức  ( PCT 1954 – 1960 )

California 30/9/2002

Chế Văn Thức ( PCT 1954-1960 )

(Đặc san kỷ niệm 50 thành lập Trừơng Phan Châu Trinh , Đà Nẵng, Cali 2002 ) 

Star InactiveStar InactiveStar InactiveStar InactiveStar Inactive

 Dethat2 53 54 PCTB

Sau năm 1950, tấm biển École Franco – Vietnamienne de Tourane được thay thế tấm biển mới , với chữ Việt Nam là Trường Tiểu học. Niên khóa 1952 -1953 , học sinh lớp Nhứt ( lớp 5 ngày nay ) tại thành phố Đà Nẵng, theo tôi dự đoán, ít nhất có từ 4 đến 6 lớp, mỗi lớp trung bình gồm 50 học sinh. Như vậy tỷ số học sinh lớp Nhứt, bậc Tiểu học lúc đó có khoảng 300 học sinh. Tỷ số đậu bằng Tiểu học xong, tôi đóan ít nhất cũng có khoảng 200 học sinh. Tôi là một trong 200 học sinh đó, để dự thi vào một lớp duy nhất năm đầu tiên , gọi là lớp Đệ thất (chỉ chọn 60 học sinh ) của Trường  Phan Châu Trinh Đà Nẵng lúc bấy giờ. Lớp Đệ thất ( lớp  6 ngày nay ) nầy nằm ké trong khu trường Nam Tiểu Học Đà Nẵng, ở dãy lớp phía bên phải của nhà trường.

Qua niên khóa 1953 -1954 , Trường Phan Châu Trinh tuyển thêm một lớp Đệ thất mới  còn lớp Đệ thất năm ngoái, niên khóa này lên Đệ lục ( lớp 7 ngày nay ) . Như vậy, Trường Phan Châu Trinh chỉ có 2 lớp ( một Đệ thất và một Đệ lục ) và hai lớp nầy vẫn còn nằm tạm trong Trường Nam Tiểu học. Tôi còn nhớ hai lớp nầy  nằm sát vách Nhà Máy Đèn của Thành phố Đà Nẵng . Tiếng máy Nhà Đèn chạy ồn ào, đã gây bực mình cho các giáo sư giảng dạy lúc bấy giờ cũng không ít. Các giáo sư tôi còn nhớ như Thầy Nguyễn Hữu Thứ, Trần Ngọc Quế, Lê Trọng Nguyễn, Thầy Tri, Cô Giáng Châu, Cô Liệu, Cô Hường v..v...

Qua niên khóa 1954 – 1955 , Trường Trung Học Phan Châu Trinh dời qua địa điểm mới, được xây trên một khu đất rộng , mở thêm nhiều lớp hơn ...nằm đối diện với Bệnh xá. Khu Bệnh xá nầy , sau trở thành Trường Nam Tiểu học, cũng nằm trên đường Lê Lợi. Cũng dọc theo con đường nầy, chạy dài xuống phía biển là Trường Trung học tư thục Phan Thanh Giản . Trong thời gian này, tại Đà Nẵng , các trường Trung học khác cũng mọc lên theo nhu cầu dân số và học vấn của học sinh, như các Trường Bán Công, Nguyễn Công Trứ, Trường Tây Hồ, Sao Mai..v.v...Trường Phan Châu Trinh, cũng vì nhu cầu trên , nên mỗi năm đều phải mở tăng thêm lớp học, cải tiến phòng ốc, và bổ nhiệm thêm các giáo sư cần thiết khác...

PCT1953 540004

Hồi đó tôi còn nhớ, hễ cô cậu nào mà trúng tuyển vào Trường Trung Học Phan Châu Trinh Đà Nẵng, hoặc được cá trường công khác chuyển đến , có nghĩa là được học Trường nầy...là điều hãnh diện .

Sau năm Đệ tứ , niên khóa 1955 -1956, các cô cậu học sinh Phan Châu Trinh Đà Nẵng phải vô tận Hội An để thi bằng Trung Học. Kết quả lần đầu tiên , Đà Nẵng rớt hơi nhiều, trong đó có tôi . Sau kết quả kỳ thi , các cô cậu đậu trung học, nếu gia đình có khả năng cho tiếp tục học thêm thì phải vào Sài Gòn hoặc ra Huế để học tiếp các lớp Đệ tam, Đệ nhị, Đệ nhất, vì lúc bấy giờ, thành phố Đà Nẵng chưa có các lớp này.

Từ niên khóa 1958 -1959 , Trường Trung Học Phan Châu Trinh Đà Nẵng bắt đầu mở lớp Đệ tam, rồi năm sau thêm lớp Đệ nhị. Cũng để đáp ứng cho nhu cầu  về nghề nghiệp, thành phố Đà Nẵng còn mở thêm Trường Kỹ Thuật rất tân tiến , trang bị đđầy đủ các phương tiện chuyên khoa , tọa lạc tại khu bãi biển Thanh Bình.

Nói về kỷ niệm đối với Trường Trung Học Phan Châu Trinh Đà Nẵng , riêng tôi, cũng như một số bạn nam nữ khác, sau khi đậu Trung học kỳ nhì, tôi phải khăn gói ra Huế vào Trường Quốc Học để học lớp Đệ tam ban A.

Những người cùng thế hệ với tôi bấy giờ, từng học lớp Đệ thất, Đệ lục, nằm ké trong Trường Nam Tiểu học Đà Nẵng cho đến khi qua Trường mới, với danh hiệu Trường Trung Học Phan Châu Trinh, và khi xa trường, hoặc bỏ trường cũ mà đi, để xa các bạn bè thân thương  như Trương Duy Hy, Lê văn Cử, Trần Thượng Thiện, Vương văn Mau ( Mau Chà Và ) Nguyễn Như Hàng ,Nguyễn văn Tú, Nguyễn ngọc Bang, Lâm Quang Thị, Lý thị Hạnh, Trần thị Ngọc Trai ,Nguyễn thị Trai ,An Ý Hạnh, Nguyễn thị Xuân Hương, Nguyễn thị Bich Liên ( tức Đệ ) v..v...thì làm sao mà không lưu luyến về kỷ niệm ấu thơ của mình ?

Trong suốt thời gian học tại Trung Học Phan Châu Trinh Đà Nẵng tôi cũng có một hãnh diện khác nữa là tôi ở trong Đội Bóng Tròn của nhà Trường. Đội Bóng Tròn Phan Châu Trinh Đà Nẵng đã gây tiếng vang chiến thắng nhiều lần . Chỉ có một lần thua Đội Bóng tròn Quốc Học tại Huế mà thôi. Lúc đó tôi đá cả hai chân . Thường tôi đứng trung đạo. Nếu thiếu góc trái thì tôi đứng bên trái. Trong đội có Trần Thượng Thiện chuyên môn tết (tức” tête”,là dùng đầu đánh gạt banh vào lưới ) . Bây giờThiện trở thành Mục Sư. Lê văn Cử đã chết trong tù ở Bắc Việt. Trương Duy Hy, Nguyễn Như Hàng bị kẹt ở Đà Nẵng. Trần thị Ngọc Trai xưa kia xinh đẹp , học giỏi , nay bị lãng trí ở Canada.

PCT Bongda1

Bạn bè chung lớp ngày xưa tứ tán khắp nơi , đương nhiên cũng có người qua bên kia thế giới, cũng có người đỗ đạt thành tài như Hùnh Huynh ( thạc sĩ Mỹ ) và cũng có người đứng bên kia chiến tuyến ý thức hệ trong cuộc chiến Việt Nam.

Riêng tôi, tôi nghĩ rằng đã là bạn bè, chung trường và chung kỷ niệm thời thơ ấu với nhau – rất tuyệt đẹp – thì không thể nào có cái cảnh như Đặng Trần Thường cư xử quá ư cay nghiệt với Ngô Thời Nhậm , bạn học ngày xưa vì một hoàncảnh đã đổi thay, dưới thời vua Gia Long và Nguyễn Tây Sơn .

Vô Tình

( Houston – tháng bảy trời mưa như mưa xứ Quảng )

( Đặ̣c San Kỷ niệm 50 thành lập Phan Châu Trinh , Đà Nẵng. Cali 2002   )